THƯ CHUNG HẬU ĐẠI HỘI DÂN CHÚA
Cùng nhau bồi đắp nền Văn Minh Tình Thương và Sự Sống
trích từ Kinh Đức Mẹ La Vang
Kính gửi: Toàn thể Cộng đồng Dân Chúa Việt Nam
DẪN NHẬP
1. Cử hành Năm Thánh
kỷ niệm 350 năm thiết lập hai địa phận tông tòa đầu tiên Đàng Trong và Đàng
Ngoài, 50 năm thiết lập Hàng Giáo Phẩm, Giáo Hội tại Việt Nam dâng lời tạ ơn
Thiên Chúa và tri ân các bậc tiền nhân, đồng thời nỗ lực đào sâu và làm tăng
trưởng đức tin cũng như hâm nóng lại nhiệt tình loan báo Tin Mừng.[1] Trong tâm
tình đó, ngày lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, 24.11.2009, cộng đoàn tín hữu Việt
Nam đã long trọng khai mạc Năm Thánh tại Sở Kiện thuộc Tổng giáo phận Hà Nội.
Sau một năm chuẩn bị, Đại Hội Dân Chúa được tổ chức tại Trung Tâm Mục Vụ thuộc
Tổng giáo phận Thành Phố Hồ Chí Minh từ ngày 21 đến 26.11.2010. Cuối cùng, lễ Bế
Mạc Năm Thánh được cử hành trọng thể tại Trung Tâm Hành Hương Đức Mẹ La Vang
thuộc Tổng giáo phận Huế ngày lễ Hiển Linh 06.01.2011.
2. Để phát huy những
thành quả của Năm Thánh, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam gửi đến toàn thể các tín hữu
Thư Chung hậu Đại Hội Dân Chúa 2010. Thư Chung này hình thành từ những suy tư,
trao đổi và cầu nguyện của toàn thể Dân Chúa Việt Nam, trong nước cũng như hải
ngoại, hợp nhất với các mục tử, để định hướng cho đời sống và hoạt động của
Giáo Hội tại Việt Nam trong hoàn cảnh hiện nay. Tất cả là để phục vụ Vương Quốc
Thiên Chúa, vương quốc sự thật, sự sống, công chính, yêu thương và bình an.[2]
3. Dưới ánh sáng Tin Mừng,
Thư Chung này trước hết trình bày sơ lược về hiện trạng quê hương, nơi người
Công Giáo Việt Nam đang sống và thực thi sứ vụ của mình. Chương II cho thấy cần
phải sống và thể hiện mầu nhiệm Giáo Hội như thế nào trong hoàn cảnh ngày nay
theo lời mời gọi của Chúa. Chương III tập trung vào sự hiệp thông trong Giáo Hội
được nhìn như gia đình của Thiên Chúa. Chương IV nêu lên những khía cạnh chính
yếu trong sứ vụ của Giáo Hội tại Việt Nam ngày nay.
HIỆN TRẠNG XÃ HỘI VIỆT NAM DƯỚI ÁNH SÁNG ĐỨC TIN
“Cảnh sắc đất trời thì
các người biết nhận xét,
còn thời đại này, sao các
người lại không biết nhận xét” (Lc 12, 56).
4. Được mời gọi tìm kiếm
Thánh ý Thiên Chúa qua những dấu chỉ thời đại, Giáo Hội tại Việt Nam cố gắng lắng
nghe, nhận diện và phân định những thực tại xã hội dưới ánh sáng Tin Mừng.
Hiện nay Việt Nam đang
hòa nhập vào tiến trình toàn cầu hóa, cụ thể qua việc tham gia các tổ chức khu
vực như Khối Các Nước Đông Nam Á (ASEAN) và quốc tế như Tổ Chức Thương Mại Thế
Giới (WTO). Việt Nam thu hút đầu tư của các tập đoàn kinh tế trong và ngoài nước
với những kỹ thuật hiện đại, tạo thêm công ăn việc làm cho dân chúng và làm cho
đất nước mang dáng dấp một quốc gia đang phát triển.[3] Người dân được tiếp cận
với những thông tin và thành quả đa dạng về khoa học kỹ thuật, mở ra những cơ hội
cho một phong thái làm việc mới.[4]
Tuy nhiên, vì chưa được
chuẩn bị đầy đủ để bước vào tiến trình toàn cầu hóa nên Việt Nam gặp rất nhiều
thách đố. Tình trạng lạm phát, tệ nạn tham nhũng và hối lộ, việc quản lý lỏng lẻo
và thiếu trách nhiệm đối với những tài nguyên quốc gia… làm cho đời sống người
dân thêm khó khăn.[5] Hố phân cách giầu nghèo ngày càng sâu rộng hơn. Nhiều người
dân vẫn chưa có mức sống xứng hợp với nhân phẩm, không những tại nông thôn mà
ngay cả trong những thành phố lớn. Do đó, vấn đề không chỉ là kinh tế mà còn là
vấn đề đạo đức và xã hội.[6]
5. Hiện trạng kinh tế ấy kéo
theo nhiều thay đổi trong xã hội Việt Nam. Sinh hoạt làng quê cổ truyền dần dần
được thay thế bằng nếp sống đô thị.[7] Dân chúng đổ xô về những thành phố lớn
kiếm công ăn việc làm, tạo ra mật độ dân cư chênh lệch giữa nông thôn và thành
thị. Đặc biệt tại các thành phố lớn, do tình trạng dân số gia tăng quá nhanh,
thiếu chính sách quản lý và phát triển đô thị hợp lý, nên gây nhiều hậu quả
tiêu cực trên sinh hoạt xã hội: môi trường sống thiếu vệ sinh và đang bị tàn
phá, hệ thống giao thông và y tế yếu kém, nhiều tệ nạn xã hội như nghiện ngập,
phá thai, mãi dâm, bạo lực...[8]
Giới trẻ Việt Nam rất
năng động, sẵn sàng tham gia những giao lưu và sinh hoạt xã hội. Họ mau chóng nắm
bắt những thành quả của công nghệ hiện đại để nâng cao kiến thức và giúp ích
cho đời. Tuy nhiên, chủ nghĩa tương đối và hưởng thụ, tình trạng giáo dục bất cập,
những cách trình bày chân lý nửa vời trên các phương tiện truyền thông, những
chương trình giải trí thiếu lành mạnh… đã đưa nhiều bạn trẻ đến một não trạng
và lối sống thực dụng, làm bất cứ điều gì để hưởng lợi, miễn là không bị bắt
hay không ai nhìn thấy. Tiêu chuẩn tốt xấu trở thành tương đối và như thế, có dấu
hiệu về sự phá sản lương tâm.[9]
6. Nền kinh tế thị trường
phần nào đã giúp cho đất nước phát triển. Tuy nhiên, chủ trương tập quyền, những
chính sách bất cập và luật pháp chưa nghiêm minh, qui chế ưu đãi cho một thiểu
số đặc quyền, nạn tham nhũng, v.v.... tạo nên lối sống ích kỷ, đùn đẩy trách
nhiệm và thiếu quan tâm đến công ích. 10] Ngoài ra, các tôn giáo cũng như nhiều
người thiện chí vẫn chưa có điều kiện pháp lý để đóng góp tích cực vào việc xây
dựng đất nước, cách riêng trong lãnh vực giáo dục, y tế và bác ái.
7. Truyền thống văn hóa
Việt Nam vẫn đề cao những đức tính như tình gia đình gia tộc, tương thân tương
ái, tôn sư trọng đạo... Tuy nhiên, những giá trị đó đang bị đe dọa nghiêm trọng
do não trạng duy vật và hưởng thụ, tính cục bộ và óc địa phương hẹp hòi, thói
gian dối và lừa đảo, nạn bạo hành...[11] Điều đáng lo ngại hơn cả là phẩm chất
giáo dục. Sứ mệnh của giáo dục là đào tạo cho xã hội những con người liêm chính
và có tinh thần trách nhiệm, biết phát huy việc học hỏi và suy tư với óc phê
phán cũng như khảo cứu cách sáng tạo. Trong thực tế, hiện trạng giáo dục tại Việt
Nam khiến nhiều người lo ngại, một số giáo viên chưa thể hiện được chức năng
nhà giáo đích thực, môi trường học đường bị ô nhiễm do bệnh thành tích, thương
mại hóa…[12] Nền giáo dục tại Việt Nam đang cần đến một triết lý giáo dục nhân
bản đích thực và toàn diện.[13]
8. Thừa hưởng truyền thống
tôn giáo Á Đông, được biểu lộ qua những hình thức tín ngưỡng đa dạng, người Việt
Nam dễ hướng về “Ông Trời” và tôn kính Tổ Tiên. Chính niềm tin đó là nền tảng
cho đời sống đạo đức để họ quý trọng sự sống, ăn ở ngay lành và sống hài hòa với
mọi người.[14] Tuy nhiên, tâm thức tôn giáo nơi người Việt Nam thường thiên về
tình cảm, giới hạn vào một số thực hành nghi lễ và luân lý. Khuynh hướng này dễ
đưa đến chủ trương “tương đối hóa tôn giáo”, gây khó khăn cho việc trình bày
cũng như lãnh hội giáo lý mạc khải của Kitô giáo.[15] Hơn thế nữa, một khi
không được đặt nền trên lý trí khao khát chân lý, tâm tình tôn giáo cũng dễ bị
lay động trước những trào lưu duy vật và hưởng thụ.
9. Những phân tích trên
cho thấy sự tương tác mật thiết giữa các yếu tố kinh tế, xã hội, văn hóa và đời
sống tôn giáo.[16] Một mặt, sự phát triển hiện nay đã tác động sâu rộng trên đời
sống đức tin và luân lý. Mặt khác, sự thăng tiến con người toàn diện và sự phát
triển bền vững của xã hội phải được đặt nền trên những giá trị đạo đức và tôn giáo.[17]
Đây quả là một thách đố lớn
cho đời sống và sứ vụ của Giáo Hội: Làm thế nào có thể thi hành sứ mệnh yêu
thương và phục vụ của Đức Kitô giữa những đổi thay không ngừng của xã hội? Làm
thế nào có thể chu toàn sứ mệnh loan báo Tin Mừng cho đại đa số người Việt chưa
biết Chúa Giêsu? Tuy nhiên, chính thách đố này lại trở thành cơ hội thuận lợi
thúc đẩy Giáo Hội canh tân, “tự vấn lương tâm trong tư cách cộng đồng cũng như
trong tư cách cá nhân, xem chúng ta có thể sống đức tin thế nào cho tốt hơn và
thi hành hiệu quả hơn sứ mệnh chúng ta đã lãnh nhận từ Chúa Giêsu”.[18] Chính
vì thế, trong tác động của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội tại Việt Nam cần xác tín
và sống đúng với căn tính của mình, củng cố sự hiệp thông, phát huy nhiệt tình
truyền giáo, để chu toàn sứ vụ yêu thương và phục vụ của Đức Kitô trên đất nước
này.
Chương II
MẦU NHIỆM
GIÁO HỘI
“Thầy là cây nho, anh
em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh
nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15, 5).
10. Thiên Chúa không muốn
cứu rỗi con người riêng rẽ nhưng qui tụ họ thành một dân tộc,[19] một cộng
đoàn,[20] một gia đình của Ngài,[21] vượt lên trên những khác biệt về thể lý,
chủng tộc, văn hóa.[22] Giáo Hội là Dân Thiên Chúa được tuyển chọn từ ngàn xưa
(x. St 17, 4-7),[23] trở thành dấu chỉ và khí cụ của Thiên Chúa tình yêu giữa
lòng lịch sử nhân loại, một lịch sử vốn xen lẫn bóng tối và ánh sáng, đang rên
xiết chờ ngày vinh quang của con cái Thiên Chúa được tỏ hiện (x. Rm 8,
19-22).[24]
Giáo Hội thực sự là gia
đình của Thiên Chúa, có Thiên Chúa là Cha, có Đức Kitô là Trưởng Tử giữa đàn em
đông đúc, và có Chúa Thánh Thần là tình yêu hiệp thông.[25] Các tín hữu là những
“người đồng hương với các người thuộc dân thánh, và là người nhà của Thiên
Chúa” (Ep 2, 19).[26] Hình ảnh Giáo Hội-Gia Đình gần gũi với tâm thức, kinh
nghiệm và suy nghĩ của tín hữu Việt Nam nói riêng và người dân Việt nói
chung.[27] Hình ảnh đó trình bày Giáo Hội như một cộng đoàn hợp nhất yêu
thương, liên đới, chung tay làm việc, chứ không nặng cơ cấu và luật lệ, nên dễ
được đón nhận hơn đối với tâm thức người Việt.[28] Do đó, cần nghiên cứu, suy
tư và trình bày Giáo Hội như gia đình của Thiên Chúa, để hội nhập thần học Kitô
giáo vào xã hội Việt Nam.[29] Trên nền tảng thần học đó, các mục tử xây dựng những
kế hoạch mục vụ “giáo xứ là gia đình của các gia đình”,[30] canh tân cử hành phụng
vụ và cầu nguyện trong bầu khí hiệp thông gia đình, cũng như phát triển những
hoạt động mục vụ gia đình.[31]
11. Được Lời Chúa qui tụ,
Dân Thiên Chúa chỉ có thể được xây dựng vững vàng trên nền tảng Lời Chúa.[32]
Được lắng nghe với lòng chân thành và kiên nhẫn, Lời Chúa sẽ trở thành nguồn sống
dưỡng nuôi, ánh sáng soi đường và sức mạnh củng cố đức tin của các tín hữu
trong mọi hoàn cảnh. Lịch sử Giáo Hội Việt Nam cho thấy các hình thức sống Lời
Chúa qua những việc đạo đức truyền thống như Đàng Thánh Giá, Kinh Truyền Tin,
Kinh Mân Côi, Kinh cầu nguyện sớm tối, v.v… đã nuôi dưỡng và củng cố đời sống đức
tin của bao thế hệ. Những việc đạo đức ấy thật đáng trân trọng và cần bảo tồn
cũng như đổi mới và phát huy. Đồng thời, các tín hữu Việt Nam cần làm quen với
Lời Chúa hơn nữa. Do đó Giáo Hội tại Việt Nam phải “phát động chương trình mỗi
gia đình một cuốn Kinh Thánh được đặt nơi xứng hợp, cổ võ đọc và cầu nguyện với
Lời Chúa”,[33] khuyến khích học thuộc lòng những đoạn Kinh Thánh cốt yếu.[34] Mọi
thành phần Dân Chúa, giáo dân, chủng sinh, tu sĩ và các mục tử, cần tập thói
quen đọc và suy niệm Lời Chúa hằng ngày,[35] đặc biệt theo phương thức Lectio divina.[36]
Cùng với việc học hỏi Lời
Chúa, việc dạy và học giáo lý là đòi hỏi tối cần thiết trong đời sống Giáo Hội,
nhất là trong thời đại ngày nay đầy rẫy những luồng tư tưởng nghịch với Tin Mừng.[37]
Đại Hội Dân Chúa mong mỏi sớm có được những nguyên tắc, đường hướng và chương
trình chung, cũng như một thủ bản chung về giáo lý, vừa trung thành với Tin Mừng
vừa gần gũi với văn hóa Việt Nam.[38] Đồng thời, Lời Chúa phải là nền tảng cho
mọi chương trình thường huấn cũng như đào tạo chủng sinh, tu sĩ, giáo lý
viên.[39]
12. Giáo Hội là Nhiệm Thể
Đức Kitô, có Đức Kitô là Đầu, Thủ lãnh, nguyên lý sáng tạo, cứu chuộc và thánh
hóa.[40] Giáo Hội được chuộc lại không phải bằng vàng bạc, nhưng bằng Máu châu
báu của Đức Kitô (x. 1 Pr 1, 18-19). Khi được qui tụ và hợp nhất quanh vị giám
mục nơi bàn tiệc Thánh Thể, cộng đoàn tín hữu cử hành mầu nhiệm Vượt Qua, thông
phần vào sự sống Đức Kitô và được biến đổi nên giống Người,[41] được xây dựng
thành cộng đoàn hiệp thông huynh đệ và dấn thân rao giảng Tin Mừng.[42] Như thế,
Thánh Thể là trung tâm, nguồn mạch và chóp đỉnh của đời sống và sứ vụ của Giáo
Hội.[43] Do đó, các mục tử phải chú tâm đến việc cử hành Thánh Thể thật sốt sắng
và xứng đáng, nhất là ngày Chúa Nhật, và hướng dẫn cộng đoàn tham dự Thánh Lễ
cách ý thức, tích cực và sống động hơn.[44] Các ngài cũng cần thúc đẩy và canh
tân việc sùng kính Thánh Thể, vốn đã từng nổi bật trong truyền thống Giáo Hội
Công Giáo tại Việt Nam.[45]
Ý thức về thân phận tội lỗi
của mình,[46] các tín hữu cần khiêm nhường thống hối và đón nhận ơn tha thứ qua
bí tích Giao Hòa, để xứng đáng là chi thể trong Nhiệm Thể Đức Kitô. Bí tích
Giao Hòa vừa là bí tích của hiện tại qua việc tha tội vừa là bí tích của tương
lai nhằm xây dựng tình hiệp thông giữa gia đình con cái Thiên Chúa.[47] Ước mong
các mục tử luôn quảng đại và sẵn sàng hơn nữa trong việc giúp các hối nhân lãnh
nhận bí tích Giao Hòa.[48]
13. Giáo Hội là Đền thờ của
Chúa Thánh Thần, được xây trên mười hai cột trụ là các tông đồ của Con Chiên
(x. Kh 21, 14), được trang hoàng bằng muôn vàn ân sủng của Chúa Thánh Thần (x.
1 Cr 12, 4-11; Rm 12, 4-8), Đấng là nguyên lý hợp nhất, làm phát sinh và thúc đẩy
đức ái.[49] Trong đền thờ này, Giáo Hội kết hợp với Chúa Giêsu là Hy Tế chân thật,
hiến dâng chính mình làm của lễ thơm tho đẹp lòng Thiên Chúa (x. Rm 12, 1; Kh
8, 3-4; Tv 141, 2), dâng lên Thiên Chúa niềm tri ân và ngợi khen, cùng với những
âu lo và hy vọng của toàn thể nhân loại và tạo thành (x. Ep 5, 20; Pl 4, 6-7).
Cộng đoàn tín hữu Việt Nam cần phải chú ý nhiều hơn nữa đến việc vun trồng đời
sống nội tâm, nhấn mạnh chiều kích thiêng liêng trong mọi chương trình huấn luyện
cũng như mục vụ. Như vậy, mọi thành phần trong Giáo Hội được kêu gọi nên thánh,
vươn đến đức ái trọn hảo, theo gương khiêm nhường và phục vụ của Đức Kitô. Thật
vậy, nếu Giáo Hội Việt Nam hãnh diện có 117 Thánh Tử Đạo chuyển cầu cho mình cạnh
Tòa Chúa, thì hơn bao giờ hết, Giáo Hội cần đến sự thánh thiện của con cái
mình, những tín hữu can đảm sống Tin Mừng trong mọi môi trường làm việc giữa đời
thường.[50] Chính qua cách sống đó, lễ dâng của Giáo Hội được tiếp tục cử hành
trong đời sống các tín hữu.
14. Theo khuôn mẫu Ngôi Lời
nhập thể, Giáo Hội mang đặc tính vừa thần linh vừa nhân loại, trong đó những yếu
tố nhân loại phải qui hướng và lệ thuộc yếu tố thần linh.[51] Giáo Hội không phải
là thực thể duy linh cũng không phải là một tổ chức thuần túy nhân loại, nhưng
nơi Giáo Hội, “cái hữu hình là dấu chỉ và dụng cụ của cái vô hình, còn cái vô
hình được nhập thể trong cái hữu hình”.[52] Vì thế, Giáo Hội được gọi là bí
tích cứu độ. Như vậy, phẩm trật và nhiệm cục bí tích thuộc về yếu tính của Giáo
Hội. Trong chiều hướng đó, các tín hữu Việt Nam phải vượt qua lối sống đạo “vụ
hình thức”, đồng thời cần hiểu đúng ý nghĩa “đạo tại tâm”.[53] Vì là một thực tại
tôn giáo chứ không phải thực tại chính trị hay kinh tế, nên Giáo Hội không bao
giờ tìm cách thay thế chính quyền, nhưng chỉ mong muốn sử dụng tất cả khả năng
để phục vụ Thiên Chúa và con người.[54] Đàng khác, Giáo Hội rất quan tâm đến sự
thăng tiến nhân bản của các tín hữu và đồng bào của mình, xem đó là thành phần
thiết yếu trong việc phát triển con người toàn diện và phát triển vững bền của
xã hội.[55] Giáo huấn này phải hướng dẫn và chi phối mọi nỗ lực canh tân đời sống
cầu nguyện cũng như các kế hoạch về truyền giáo, công bằng xã hội và giáo dục.
15. Cũng trong ánh sáng mầu
nhiệm Ngôi Lời nhập thể, Giáo Hội ý thức rằng hội nhập văn hóa và tính bản địa
là đòi hỏi nội tại của đức tin Kitô giáo.[56] Một khi đã đón nhận Tin Mừng,
Giáo Hội địa phương có trách nhiệm làm cho Tin Mừng thấm nhuần các giá trị văn
hóa trong dân tộc mình.[57] Tiến trình này không xóa bỏ nhưng thanh lọc và làm
cho bản sắc dân tộc thêm phong phú nhờ các giá trị Tin Mừng, nhất là giá trị của
tình yêu thương “đến cùng”, yêu thương “ngay cả kẻ thù”.[58]
Theo đường hướng đó, Giáo
Hội Việt Nam phải nghiên cứu tường tận bản sắc văn hóa dân tộc, hầu có thể phân
định những gì là tốt đẹp,[59] để diễn tả đức tin bằng những nét văn hóa ấy đồng
thời đem tinh thần Phúc Âm thấm vào các sinh hoạt văn hóa, cụ thể như các dịp lễ
tết và ma chay cưới hỏi.[60] Cũng thế, cần khuyến khích và hướng dẫn các văn
nghệ sĩ Công Giáo trong các sáng tác của họ. Ngoài ra, những chương trình huấn
luyện ở mọi cấp phải quan tâm đến việc học hỏi về hội nhập văn hóa.[61]
16. Giáo Hội là bí tích của
Nước Thiên Chúa nơi đó Thiên Chúa là tất cả cho mọi người (x. 1 Cr 15, 25-28;
Ep 1, 21-22), nên phải luôn ý thức rằng chỉ một mình Thiên Chúa mới làm cho Nước
Trời đạt tới viên mãn; vậy Giáo Hội không ngừng cầu xin cho “Nước Cha trị đến”
(Lc 11, 2; Mt 6, 10). Đồng thời, Giáo Hội cũng là “Nước Chúa trong trạng thái hạt
mầm”, là “Nước Chúa đang tăng trưởng”.[62] Vì thế, Giáo Hội có sứ mệnh yêu
thương và phục vụ, hướng dẫn nhân loại đạt tới hạnh phúc chân thật.[63] Các môn
đệ Đức Kitô “không hề coi thường các thực tại nhân sinh”,[64] nhưng “sẵn sàng cộng
tác tích cực với mọi người xây dựng trần thế”,[65] vì tất cả những gì tốt lành
và thiện hảo sẽ không bị phá hủy mà được nên hoàn hảo trong Nước Chúa vĩnh cửu
và phổ quát.[66] Không có sự đối kháng giữa niềm chờ mong Nước Chúa và nỗ lực
xây dựng trần thế, do đó phải tránh xa quan niệm và lối sống phân cách giữa đức
tin và đời sống hàng ngày.[67] Cũng vì thế, cần phải cảnh giác trước mọi hình
thức tội lỗi và can đảm vượt thắng chủ nghĩa tục hóa, óc cục bộ và vô tín, bởi
vì những điều ấy hạ thấp phẩm giá con người.[68] Như vậy, Giáo Hội đồng hành với
thế giới như một ngôn sứ, chia sẻ những khổ đau và vui buồn của nhân sinh, can
đảm chống lại sự ác dưới mọi hình thức, vì hạnh phúc toàn diện của con cái
Thiên Chúa, và kiên trì khơi lên nơi lòng người niềm hy vọng vào Thiên Chúa tín
trung.[69]
17. Đang khi mong chờ
Ngày Đức Kitô lại đến và trong nỗi khát khao được kết hợp trọn vẹn với Thiên
Chúa, Giáo Hội sống thời gian hiện tại trong tình hiệp thông với Giáo Hội thiên
quốc và những chi thể đã ra đi trước. Người giáo dân Việt Nam luôn yêu mến nhìn
lên Đức Maria với tình con thảo và dành cho Mẹ lòng tôn kính đặc biệt. Trải qua
những giai đoạn thăng trầm của lịch sử, Giáo Hội tại Việt Nam luôn tin tưởng
kêu xin ơn phù hộ của Đức Nữ Vương uy quyền, cũng như sự trợ giúp của Thánh Cả
Giuse và lời chuyển cầu của Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Tuy nhiên, lòng sùng
kính Đức Maria và các thánh cần được đặt trên nền tảng Kinh Thánh và giáo lý vững
chắc, tránh những hình thức quá nặng tình cảm. Đồng thời người Công Giáo Việt
Nam cần biểu lộ lòng hiếu thảo với ông bà tổ tiên đúng theo giáo huấn của Giáo
Hội và hợp với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
18. Trong thân phận lữ
hành, Giáo Hội không thể tránh khỏi những khó khăn, thử thách, và ngay cả bách
hại. Tuy nhiên thay vì bi quan, thù hằn hay sợ hãi,[70] các tín hữu được mời gọi
khám phá ở đó những ơn lành của Thiên Chúa: được nên giống Đức Kitô, được chia
sẻ Chén và Phép Rửa của Người (x. Mc 10, 38-39), và được thanh luyện nên Hiền
Thê trung tín của Người (x. Ep 5, 25-27; Kh 19, 8; 21, 9b-11). Thật vậy, “dù
gian truân, khốn khổ, đói rách, bắt bớ v.v…, không điều gì có thể tách chúng ta
ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu” (Rm 8, 39). Hơn nữa,
bằng chính kinh nghiệm lịch sử của mình, Giáo Hội tại Việt Nam làm chứng cho
chân lý Phúc âm: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn
trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,
24). Máu của các chứng nhân tử đạo thực sự là “hạt giống trổ sinh các Kitô hữu”
(Tertullianô).
19. Tóm lại, chúng ta
tuyên xưng Giáo Hội là công trình của tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi.[71] Từ Ngài,
Giáo Hội sinh ra; nhờ Ngài, Giáo Hội hoạt động; và hướng tới Ngài, Giáo Hội dấn
bước.[72] Chỉ một mình Thiên Chúa mới nắn đúc nên Giáo Hội theo lòng Ngài mong
ước.[73] Qua cuộc hành trình thiêng liêng của Năm Thánh 2010, chính Chúa Thánh
Thần đốt nóng và canh tân lòng trí chúng ta để sống mầu nhiệm Vượt Qua của Đức
Kitô, xây dựng tình hiệp thông sâu xa trong Giáo Hội và đi tới những biên cương
mới của sứ vụ.
Chương III
HIỆP THÔNG TRONG GIA ĐÌNH CỦA THIÊN CHÚA
“Để tất cả nên một,
như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta. Như vậy, thế
gian sẽ tin rằng Cha đã sai con” (Ga 17, 21).
20. Cộng đoàn các môn đệ
được Chúa Giêsu thiết lập tiên vàn là để ở với Người (x. Mc 3, 14), lắng nghe
Người (x. Lc 10, 39) và chia sẻ đời sống với Người (x. Ga 1, 39). Trong Chúa
Thánh Thần, chúng ta nên một với Đức Kitô và nhờ Người, nên một với Thiên Chúa
Cha. Từ đó, chúng ta nên một với nhau làm thành Giáo Hội. Mầu nhiệm hiệp thông
của Thiên Chúa Ba Ngôi vừa là suối nguồn vừa là mẫu mực và cùng đích của hiệp
thông trong Giáo Hội.[74] Theo giáo lý truyền thống, hiệp thông là thông phần cùng
một Chúa Thánh Thần, thông dự các thực tại thánh, và thông công giữa các thánh.
Như thế, nguồn mạch và nền tảng cơ bản cũng như điều kiện thiết yếu cho sự hiệp
thông giữa các tín hữu trong Giáo Hội, chính là sự hiệp thông với Thiên Chúa.
Không kết hợp với Thiên Chúa thì không thể nói đến hiệp thông trong Giáo Hội được.[75]
Đồng thời, sự hiệp thông hữu hình trong cùng một giáo lý các tông đồ, cùng một
cử hành bí tích và cùng một tổ chức phẩm trật, là dấu chỉ và khí cụ của sự hiệp
thông vô hình với Thiên Chúa.[76]
21. Sự hiệp thông trong
yêu thương giữa các tín hữu là hoa quả của Chúa Thánh Thần (x. Rm 14, 17; Gl 5,
22-23) và là dấu chỉ hữu hình của sự hiệp thông với Thiên Chúa, vì “ở đâu có
tình yêu thương, ở đó có Thiên Chúa”.[77] Đức tin công giáo và tông truyền đòi
hỏi Giáo Hội tại Việt Nam hiệp thông với Giáo Hội phổ quát và hợp nhất với Đức
Giáo Hoàng là đầu mối của đức ái, là nguyên lý và nền tảng hữu hình, trường tồn
của sự hợp nhất trong Giáo Hội.[78]
22. Hiệp thông với Giáo Hội
phổ quát, Giáo Hội tại Việt Nam củng cố và phát huy sự hiệp thông với các Giáo
Hội chị em, cách riêng tại Châu Á. Sự liên đới với các Giáo Hội tại Châu Á
không những thể hiện sự hợp nhất mà Chúa Giêsu đã tha thiết cầu nguyện: “Xin
cho họ nên một” (Ga 17, 21), mà còn làm phong phú kinh nghiệm sống và cách
trình bày đức tin nhờ những trao đổi suy tư thần học, mục vụ và tu đức.[79]
Giáo Hội tại Việt Nam cần tiếp tục vun trồng tình hiệp thông liên đới này bằng
nhiều cách thế khác nhau.
23. Sự hiệp thông đích thực
và sâu xa trong Giáo Hội cần được thể hiện nơi từng giáo phận cũng như giữa các
giáo phận. Qua sự hợp nhất yêu thương giữa mọi thành phần Dân Chúa như trong một
gia đình, các cộng đoàn vừa là dấu chỉ vừa là trường dạy hiệp thông. Mối tương
quan giữa giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân được đặt nền trên phẩm giá bình
đẳng của mọi tín hữu, cũng như tinh thần đồng trách nhiệm của từng tín hữu nơi
Thân Mình Đức Kitô trong đức tin, cậy, mến.[80] Đại Hội Dân Chúa mong muốn Giáo
Hội tại Việt Nam củng cố sự hiệp thông và tham gia trong đời sống Giáo Hội ở mọi
cấp bậc, tạo điều kiện để mọi thành phần Dân Chúa tích cực tham gia vào đời sống
và sứ vụ của Giáo Hội”.[81] Trên thực tế, điều này chưa được thể hiện đồng đều
và rõ nét ở cấp giáo phận cũng như giáo xứ. Vì thế, việc xây dựng một Giáo Hội
hiệp thông và tham gia phải là mối quan tâm mục vụ hàng đầu của Giáo Hội tại Việt
Nam trong những năm sắp tới.[82]
24. Xây dựng Giáo Hội hiệp
thông và tham gia không hề làm giảm vai trò lãnh đạo của các vị mục tử và hàng
giáo phẩm. Lòng yêu mến và kính trọng của tín hữu Việt Nam đối với các mục tử
phát xuất từ cảm thức đức tin. Họ gắn bó và hiệp thông với giám mục giáo phận
trong tinh thần vâng phục vì xác tín rằng giám mục là “nguyên lý và nền tảng hữu
hình của sự hợp nhất trong Giáo Hội địa phương”.[83] Cũng vì thế, trước những
trào lưu tư tưởng hiện đại có nguy cơ làm cho đời sống đức tin và luân lý của
các tín hữu bị dao động, Dân Chúa tại Việt Nam mong mỏi có được sự hướng dẫn cụ
thể và kịp thời từ các giám mục là thầy dạy, là người bảo vệ đức tin và phong
hóa.
25. Sự hiệp thông của
Giáo Hội còn được biểu lộ qua sự chia sẻ trách nhiệm của hàng giáo sĩ với giám
mục của mình, như chu toàn các phận vụ được trao, hòa nhập vào đường hướng mục
vụ chung của giáo phận và Giáo Hội. Về phần mình, các giám mục nên quan tâm đồng
hành, lắng nghe và nâng đỡ các linh mục. Cũng trong tinh thần này, cần khích lệ
và cổ võ sự liên đới tương trợ giữa các giáo phận về nhân lực cũng như tài lực.
26. Lịch sử Giáo Hội Việt
Nam cho thấy vai trò quan trọng và sự đóng góp tích cực của các tu sĩ, những
anh chị em tận hiến đời mình để phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân, nhất
là những người nghèo khổ và bị bỏ rơi, bằng một tình yêu vô vị lợi. Trong hoàn
cảnh hiện nay, để phát huy tình hiệp thông và tham gia trong Giáo Hội, các tu
sĩ cần hòa nhập những hoạt động tông đồ của mình vào chương trình mục vụ chung
của các giáo phận, nơi họ đang hiện diện và phục vụ. Sự hợp tác hài hòa giữa
giáo phận, giáo xứ và dòng tu, cần được khuyến khích và cổ võ, nhằm đáp ứng những
nhu cầu đa dạng của Dân Chúa và xã hội.
27. Công đồng Vatican II
đã mở đường cho sự tham gia đa dạng của giáo dân vào đời sống Giáo Hội, ngay cả
trong việc đào tạo linh mục. Giáo Hội khắp nơi đều thu lượm được nhiều hoa quả
từ định hướng này. Trong đời sống Giáo Hội tại Việt Nam, giáo dân đã và đang
góp phần thật phong phú và quảng đại cho đời sống và sứ vụ của Giáo Hội, như
mang Tin Mừng của Chúa đến những vùng xa xôi hẻo lánh, chia sẻ công sức tiền của,
nhất là những lời cầu nguyện và bao hy sinh âm thầm để xây dựng sự hưng thịnh
và sinh động của cộng đoàn Dân Chúa. Thật đáng trân trọng những đóng góp quý
giá đó, nay Giáo Hội cần quan tâm hơn đến việc phát huy phẩm chất của giáo dân
bằng cách tổ chức các khóa huấn luyện về thần học, giáo lý, Kinh Thánh, mục vụ.[84]
Đồng thời, cần canh tân những đường hướng và qui chế tổ chức giáo phận và giáo
xứ, để giáo dân có cơ hội thực thi những quyền chính đáng và trách nhiệm của
mình trong Giáo Hội.[85]
28. Cũng thế, trong đời sống
Giáo Hội tại Việt Nam, nữ giới đã và đang góp phần tuy âm thầm nhưng rất quan
trọng trong việc xây dựng Dân Chúa. Tuy nhiên, quan niệm ‘trọng nam khinh nữ’
ít nhiều vẫn tồn tại. Điều này không tương hợp với lời thánh Phaolô: “không còn
nam hay nữ, nhưng tất cả chỉ là một trong Đức Kitô” (Gl 3, 28). Vì vậy, Giáo Hội
tại Việt Nam cần đề cao vai trò của phụ nữ và tạo điều kiện giúp họ thăng tiến,
tích cực tham gia các sinh hoạt của giáo xứ, giáo phận.[86]
29. Theo gương Chúa
Giêsu, Đấng luôn ưu ái những người trẻ, Giáo Hội hoàn vũ đang nỗ lực mời gọi
người trẻ cộng tác và tham gia vào đời sống cộng đồng Dân Chúa. Tại Việt Nam,
Giáo Hội nên nghiên cứu và mạnh dạn tổ chức những cử hành phụng tự thích hợp,
khuyến khích giới trẻ tham gia vào các hội đoàn và những sinh hoạt cộng đồng, để
ngày càng có thêm nhiều người trẻ quảng đại và can đảm, sống đức tin cách sinh
động và trưởng thành. Công việc mục vụ đó cần được chuẩn bị chu đáo bằng việc
giáo dục đức tin và nhân bản cho thiếu nhi. Nhờ đời sống thiêng liêng vững mạnh,
giới trẻ Công Giáo sẽ góp phần tích cực và bền vững vào việc lành mạnh hóa xã hội
hay dấn thân truyền giáo tại những nơi xa xôi.[87]
30. Lịch sử cứu độ đạt đến
cùng đích khi Thiên Chúa thâu họp tất cả trong Đức Kitô (x. 1 Cr 15,
23-24).[88] Giáo Hội lữ hành chính là hoa quả đầu mùa của sự hiệp thông cánh
chung đó. Thật vậy, khi mọi thành phần trong gia đình Giáo Hội nỗ lực sống hợp
nhất trong đức tin và hiệp thông trong đức ái, thì chính đó đã là một lời chứng
hùng hồn cho Tin Mừng hiệp thông.[89] Vì thế, mọi thành phần Dân Chúa phải cộng
tác với nhau, trong tác động của cùng một Chúa Thánh Thần, để xây dựng Giáo Hội
như “dấu chỉ và khí cụ của sự hợp nhất giữa Thiên Chúa với con người cũng như
giữa con người với nhau”.[90] Đây cũng là chìa khóa của việc thi hành và chu
toàn sứ mệnh được trao phó cho Giáo Hội.[91]
Chương IV
LOAN BÁO TIN MỪNG TRONG HOÀN CẢNH NGÀY NAY
31. Giáo Hội nhận lãnh
cùng một sứ vụ mà Đức Kitô lãnh nhận từ Chúa Cha (x. Ga 20, 21) là loan báo Tin
Mừng Nước Thiên Chúa. Sứ vụ này làm nên chính lý do hiện hữu của Giáo Hội giữa
lòng thế giới.[92] Vì vậy, khi đón nhận Tin Mừng, Giáo Hội tại Việt Nam cũng nhận
lãnh sứ vụ loan báo Tin Mừng Đức Kitô cho từng người và mọi người, nhờ đó họ
khám phá ý nghĩa đời sống và được lớn lên như những con người mới.[93] Nhận thức
đức tin này khiến Đại Hội Dân Chúa nhấn mạnh rằng “thay vì coi truyền giáo chỉ
như một trong những hoạt động của Giáo Hội, thì nay cần nhìn sứ mệnh truyền
giáo như nắm men thấm nhập, khơi dậy và chi phối mọi khía cạnh đời sống Giáo Hội”.[94]
Do đó, cần dành mọi nỗ lực và hoạt động, từ vật chất đến thiêng liêng và mục vụ,
cho mục tiêu này.
32. Sứ vụ này mang tính
duy nhất và toàn diện. Duy nhất, vì tất cả đều khởi đi và quy hướng về con người
Đức Giêsu Nadaret và mầu nhiệm của Người. Người là Con Thiên Chúa, Đấng vừa
khai mở vừa là hiện thân của Vương Quốc Thiên Chúa qua mầu nhiệm Khổ Nạn và Phục
Sinh. Vì thế, khi thi hành sứ vụ nhất thiết phải công bố Danh Chúa
Giêsu.[95] Toàn diện, vì sứ vụ bao gồm nhiều hoạt động: công bố Tin Mừng lần đầu
tiên (kerygma), huấn giáo nhằm xây dựng sự trưởng thành đức tin, đem tinh thần
Phúc Âm thấm nhập mọi lãnh vực đời sống xã hội và văn hóa.[96] Do đó có mối liên
hệ mật thiết giữa sứ vụ loan báo Tin Mừng và việc phục vụ sự sống cùng sự phát
triển con người toàn diện.[97] Chính Chúa Giêsu dạy Giáo Hội hướng đi này. Cho
dù mối quan tâm hàng đầu của Người là rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa, Chúa
Giêsu cũng quan tâm đến công bằng xã hội và nhu cầu vật chất của dân chúng. Như
thế, Tin Mừng của Người liên kết mật thiết với sự phát triển những giá trị nhân
linh, và không hề tách rời đức tin khỏi cuộc sống. Trong bối cảnh xã hội hiện
nay, Giáo Hội tại Việt Nam xác tín rằng Dân Chúa cần tích cực cộng tác với mọi
người thiện chí, cùng nhau bồi đắp nền văn minh tình thương và sự sống. Đó là
phương thế cụ thể để thi hành sứ vụ duy nhất và toàn diện của Đức Kitô trên đất
nước này.
33. Là công dân trong một
đất nước, người Công Giáo Việt Nam có bổn phận yêu mến và xây dựng quê hương.
Đồng thời, chúng ta thi hành bổn phận này với tinh thần Phúc Âm, khi thể hiện
chức năng tiên tri bằng tiếng nói chân thành và có trách nhiệm, thực thi yêu
thương trong chân lý và thực thi chân lý trong yêu thương.[98] Theo ý nghĩa đó,
Đức Bênêđictô XVI nhắn nhủ các tín hữu Việt Nam: “Bằng đời sống xây nền trên đức
ái, sự liêm chính, việc quý trọng công ích, anh chị em phải chứng tỏ rằng là
người Công Giáo tốt cũng là người công dân tốt”.[99]
Để thực hiện lời mời gọi
này, các tín hữu cần thấu triệt giáo huấn của Giáo Hội về xã hội.[100] Giáo huấn
này sẽ soi sáng cho các tín hữu biết cách yêu mến quê hương, yêu thương mọi
người không trừ một ai, quan tâm phát triển nhân bản và văn hóa, xây dựng
công bằng, tình liên đới, sự bình đẳng và tự do tôn giáo qua nẻo đường hiền
lành và khiêm nhường, bao dung và tha thứ.[101] Định hướng này sẽ mở đường cho
những chương trình mục vụ của Giáo Hội tại Việt Nam, đặc biệt cho thiếu nhi,
giới trẻ và di dân.[102] Như Đức Kitô, Giáo Hội không bao giờ thỏa hiệp với tội
lỗi và bất công, nhưng đồng thời yêu thương hết thảy mọi người, với lòng nhân
hậu xót thương của Thiên Chúa. Các tín hữu của Chúa Giêsu phải lấy việc lành mà
vượt thắng lối sống bạo lực, ích kỷ, hưởng thụ và phóng túng (x. Rm 12, 9-21;
1 Pr 3, 15-16; 4, 3-4).
34. Để chu toàn sứ vụ duy
nhất và toàn diện của Giáo Hội, mỗi tín hữu, theo ơn gọi riêng của mình, đều phải
dấn thân loan báo Tin Mừng. Tuy nhiên, vì sứ vụ của Giáo Hội cốt yếu mang tính
cộng đoàn, nên không một tín hữu nào có thể thi hành sứ vụ cách riêng lẻ. Chính
vì thế, các tín hữu Việt Nam, cá nhân cũng như cộng đoàn, phải tích cực tham
gia vào cùng một kế hoạch chung mà giám mục địa phương hợp nhất với Hội Đồng
Giám Mục Việt Nam đã đề ra và chịu trách nhiệm chính. Đồng thời, “cần phải có sự
hợp tác chặt chẽ hơn giữa các giáo phận, giữa các giáo phận và các dòng tu,
cũng như giữa các dòng tu với nhau”.[103]
35. Ngoài ra, mọi thành
phần Dân Chúa cần ý thức về mối tương quan sâu xa giữa đời sống chiêm niệm và
hoạt động tông đồ. “Sứ vụ là hoạt động có tính chiêm niệm và là chiêm niệm mang
tính hoạt động”.[104] Thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng là chia sẻ tặng phẩm quí
giá nhất mà chúng ta đã lãnh nhận, đó là được biết Đức Kitô (x. Pl 3, 8).
Như vậy, sứ vụ ấy trước hết là sự cảm nghiệm về Thiên Chúa đang sống và
hoạt động trong mình, điều đó thôi thúc chúng ta phục vụ sự sống và phát
triển con người toàn diện, từ thể lý đến tâm linh, từ văn hóa và xã hội đến đức
tin và luân lý. Do đó, cần cảnh giác trước những cám dỗ lôi cuốn chúng ta
rơi vào khuynh hướng đề cao hoạt động mà không quan tâm đến việc vun trồng
đời sống nội tâm.
36. Chúa Giêsu đã thi
hành sứ vụ với cung cách đặc biệt. Là Tiên Tri trung thành của chân lý Tin
Mừng (x. Kh 1, 5), Người can đảm và kiên nhẫn kêu mời mọi người sám hối và sống
theo ý định của Thiên Chúa (x. Mc 10, 2-12; Lc 13, 10-17). Là Tôi Tớ, Người
khiêm nhường phục vụ nhân loại (x. Ga 13, 1-16; Lc 22, 27) đến độ hiến thân
trên thập giá (x. 1 Pr 2, 22-24), biểu lộ uy quyền hiển trị của Thiên Chúa
tình yêu. Là Tư Tế đích thực và là vị Trung Gian giầu lòng xót thương (x. Dt 4,
14-15; 9, 11-14), Người cùng sẻ chia mọi sự với gia đình nhân loại để dâng lên
Chúa Cha những đau khổ, ưu sầu cũng như hạnh phúc và niềm vui của họ (x. Dt 4,
15; 2 Cr 8, 9).
Theo gương Chúa Giêsu,
chúng ta cần thi hành sứ vụ với cung cách của Người: can đảm và kiên trì loan
báo chân lý Tin Mừng, khiêm nhường phục vụ, chân thành chia sẻ mọi nỗi niềm của
con người, nhất là những người nghèo khổ.[105] Con người ngày nay không chỉ đón
nhận Tin Mừng bằng cách “nghe” nhưng còn bằng cách “thấy”.[106] Vì thế, Đại Hội
Dân Chúa đề nghị: trong các chương trình huấn luyện nhân sự ở mọi cấp, cách
riêng huấn luyện chủng sinh, tu sĩ nam nữ, vấn đề không chỉ là trau dồi kiến thức
nhưng còn là hình thành một cung cách sống và phục vụ của sứ giả Tin Mừng.[107]
37. Để thi hành sứ vụ
loan báo Tin Mừng trong hoàn cảnh xã hội ngày nay, Đại Hội Dân Chúa quan tâm đặc
biệt đến lãnh vực giáo dục. Chúng tôi đề nghị chính quyền mở rộng cánh cửa cho
các tôn giáo và những người thành tâm thiện chí tham gia vào việc giáo dục học
đường “là chìa khóa cho tương lai tươi sáng của đất nước”.[108] Giáo Hội Công
Giáo có thể cống hiến cho xã hội triết lý và kinh nghiệm giáo dục của mình, nhằm
đào tạo những con người có trách nhiệm với bản thân, với tha nhân và xã hội. Đồng
thời, Giáo Hội mong ước các cộng đoàn Kitô hữu, gia đình cũng như các đoàn thể,
giáo xứ cũng như các dòng tu, hãy hết sức quan tâm đến giáo dục, hỗ trợ những học
sinh nghèo, nâng cao trình độ học vấn của giới trẻ, dạy nghề cho giới trẻ miền
quê, đồng hành với giới giáo chức Công Giáo.[109]
Vượt xa việc chuẩn bị nghề
nghiệp hay đóng khung trong học đường, giáo dục dẫn con người tới Đức Kitô, Con
Người Hoàn Hảo.[110] Chính vì thế, “giáo dục đức tin phải là sợi chỉ xuyên suốt,
là tinh hoa và cùng đích của hết thảy nỗ lực giáo dục gia đình, học đường và xứ
đạo”.[111] Nền giáo dục như thế sẽ giúp người thụ giáo lắng nghe Thiên Chúa và
tìm ra được ơn gọi của mình trong kế hoạch của Ngài.[112]
38. Cách đặc biệt, Giáo Hội
xác tín rằng việc giáo dục lương tâm cho mọi người là hết sức cần thiết. Theo đề
nghị của Đại Hội Dân Chúa, “các giáo xứ cần quan tâm đến nền giáo dục đại chúng
về lương tâm, những giá trị nhân bản và văn hóa đối thoại, dưới ánh sáng Lời
Chúa”.[113] Với lương tâm ngay chính, họ thoát khỏi chủ nghĩa tương đối về
luân lý và sống đúng ơn gọi làm người của mình, giúp họ sống đạo cách ý thức
và trưởng thành hơn. Ngoài ra, quyết định sống tốt một cách can đảm sẽ là một
thông điệp mời gọi người khác cũng quyết định sống tốt.
39. Trong bối cảnh của xã
hội Việt Nam, khi thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng, Giáo Hội cần đối thoại với
các tôn giáo, với người nghèo, và với những anh chị em không tôn giáo. Đây là
cuộc đối thoại từ trái tim đến trái tim nhằm xây dựng sự hiểu biết lẫn nhau và
phục vụ hạnh phúc đích thực của con người. Đó cũng là cuộc đối thoại phục vụ ơn
cứu độ.[114]
40. Cuộc đối thoại với
các tôn giáo sẽ giúp Giáo Hội tại Việt Nam xác tín hơn nữa vào tác động của
Chúa Thánh Thần, Đấng đang dẫn dắt mọi người tới Chân Lý toàn vẹn (x. Ga 16,
13). Tại Việt Nam, chúng ta nhận thấy đức bác ái của đạo Công Giáo đã gặp gỡ
lòng từ bi của Phật Giáo, cảm thức tâm linh của Đạo Giáo, triết lý xã hội của
Khổng Giáo và lòng mộ đạo bẩm sinh của người dân Việt: luôn tôn kính Trời, thực
hành Đạo Hiếu, bày tỏ lòng biết ơn đối với các đấng sinh thành cũng như đối với
các bậc anh hùng dân tộc...[115] Đồng thời, đối thoại cũng giúp Giáo Hội rộng mở
hợp tác với các tôn giáo trong công cuộc lành mạnh hóa xã hội và thăng tiến con
người. Hơn thế nữa, đây còn là cơ hội để Giáo Hội canh tân lòng tin của mình
vào Đức Kitô là Khởi Nguyên và Cùng Đích của toàn thể lịch sử nhân loại.[116] Ý
thức tầm quan trọng của cuộc đối thoại với các tôn giáo, trong những năm sắp tới,
Giáo Hội phải lưu tâm hơn nữa đến chiều kích này trong việc đào tạo nhân sự
cũng như trong các hoạt động mục vụ.[117]
41. Sứ vụ loan báo Tin Mừng
mời gọi các tín hữu quảng đại phục vụ con người, nhất là những người nghèo khổ
và bị bỏ rơi. Chính Chúa Giêsu dành tình ưu ái đặc biệt cho những kẻ bé mọn. Việc
đối thoại với người nghèo giúp cho Giáo Hội học được cách nhìn của Đức Kitô, khám
phá nơi con người nhu cầu cần được yêu thương và tôn trọng chứ không chỉ là được
ban phát của cải vật chất.[118] Đồng thời, Giáo Hội cũng nhận ra được những
hình thức mới của sự nghèo khổ, bén nhạy trước những đổi thay của xã hội để kịp
thời đáp ứng dưới sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần.[119] Theo gương Chúa Giêsu,
Giáo Hội tại Việt Nam cần quan tâm đặc biệt đến những dân tộc ít người là những
anh chị em còn phải chịu nhiều thiệt thòi về kinh tế, xã hội cũng như văn hóa.
Các bệnh nhân, những người tàn tật, già yếu, neo đơn, mồ côi, những thiếu nữ lầm
lỡ, các tù nhân… cũng là những thành phần cần được chăm sóc nhiều hơn trong các
hoạt động mục vụ. Các cộng đoàn Kitô hữu cần tìm cách thể hiện tình yêu thương
phục vụ họ cách cụ thể, đồng hành với họ trong những khó khăn của đời sống,
giúp họ nhận ra được niềm vui của đức tin khi được nên giống Đấng chịu đóng
đinh và hoàn tất những gì còn thiếu trong cuộc khổ nạn của Người vì Hội Thánh
(x. Cl 1, 24).
42. Trong cuộc đối thoại
với anh chị em không tôn giáo, Giáo Hội nhìn nhận những nỗ lực và thiện chí của
họ trong việc phục vụ công ích. Các tín hữu cũng nên ý thức phần trách nhiệm
của mình trước hiện tượng dửng dưng, tục hóa, duy vật…, vì nhiều khi chúng
ta “đã che giấu hơn là bày tỏ khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa và tôn
giáo”.[120] Đồng thời, với sự hiền hòa và lòng kính trọng, người Công Giáo “sẵn
sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của mình” (1 Pr 3,15), thẳng
thắn trình bày quan điểm của Giáo Hội trước các vấn đề nhân sinh; nếu cần, sẵn
sàng chấp nhận đau khổ để làm chứng cho chân lý Tin Mừng. Ngoài ra, qua cuộc đối
thoại chân thành và thẳng thắn, Giáo Hội cũng có thể nhận ra hoạt động mầu nhiệm
của Chúa Thánh Thần trong tâm hồn con người, và học được cách thế trình bày niềm
tin của mình cho con người ngày nay.
43. Trước cuộc khủng hoảng
gia đình hiện nay, Giáo Hội nhận thấy cần phải tăng cường và canh tân mục vụ
gia đình, phải xem mục vụ gia đình là hoạt động quan trọng và nối kết những kế
hoạch và chương trình mục vụ của giáo xứ cũng như giáo phận.[121] Thừa hưởng nền
văn hóa Đạo Hiếu luôn lấy gia đình làm gốc, chúng tôi kêu gọi anh chị em giáo
dân quan tâm xây dựng gia đình mình nên như Giáo Hội tại gia, trở thành trường
dạy đầu tiên, nơi đào tạo những thế hệ mới vững mạnh trong đức tin và can đảm
sống đạo đức, có trách nhiệm đối với xã hội và Giáo Hội.[122] Để thực hiện mục
tiêu này, các giáo phận và giáo xứ cần hình thành một chương trình mục vụ tiền
và hậu hôn nhân thống nhất và xuyên suốt, giúp gia đình thăng tiến đời sống cầu
nguyện, tăng trưởng tình yêu hợp nhất và chung thủy, ươm mầm các ơn gọi, chung
tay giáo dục con cái trong sự thánh thiện và bền vững trong ân sủng của bí
tích Hôn nhân.[123]
44. Sống trong một đất nước
có tỷ lệ dân số trẻ rất cao,[124] đồng thời kinh nghiệm được về khả năng, sự
nhiệt tình và tính năng động của người trẻ, Giáo hội tại Việt Nam ý thức rằng
người trẻ không chỉ là tương lai nhưng còn là chính hiện tại của Giáo Hội. Do
đó, mục vụ giới trẻ vừa phải nhìn người trẻ như đối tượng cần được chăm sóc vừa
phải xem họ như những chủ thể, sứ giả loan báo Tin Mừng, đặc biệt trong môi trường
của giới trẻ.[125] Để thực hiện mục tiêu này, Giáo Hội tại Việt Nam cần đầu tư
năng lực và thời giờ hơn nữa cho mục vụ-giáo dục giới trẻ,[126] cách riêng trong
hoàn cảnh ngày nay khi người trẻ phải đối diện với nhiều khó khăn cũng như cám
dỗ trong cuộc sống. Cần nghiên cứu cách nghiêm túc về tình hình giới trẻ và tìm
kiếm những phương thế đồng hành thiết thực với họ trong cuộc sống. Theo hướng
đi này, việc đào tạo những linh hoạt viên giới trẻ có tinh thần truyền giáo và
biết làm việc tập thể là điều hết sức cần thiết.[127]
45. Đức Bênêđictô XVI đã
nhắn nhủ Hội Đồng Giám Mục Việt Nam: “Mong rằng anh em phát triển nền mục vụ
thích hợp cho các người trẻ di dân trong nước, qua việc tăng cường sự hợp tác
giữa các giáo phận gốc của họ và các giáo phận họ đến, và bằng việc cung cấp
cho họ những lời khuyên về mặt đạo đức và các chỉ dẫn thực hành”.[128] Cảm nhận
những khó khăn mà người di cư gặp phải trong các lãnh vực kinh tế, tình cảm, xã
hội, tôn giáo…, Đại Hội Dân Chúa cũng đề nghị cần có “một cuốn cẩm nang chung về
mục vụ di dân, trong đó hướng dẫn rõ ràng những nét cơ bản cần thiết được các
giáo phận nhìn nhận, cách riêng trong lãnh vực hôn nhân và dự tòng”.[129] Đồng
thời, chúng ta cũng nhận ra được những ơn lành Chúa ban qua anh chị em di dân
trong việc xây dựng Giáo Hội và truyền bá đức tin. Mục vụ di dân phải “tạo điều
kiện và thúc đẩy họ tham gia vào đời sống và sinh hoạt của cộng đoàn tín hữu địa
phương”,[130] đóng góp những nét đặc sắc của mình vào đời sống và sinh hoạt của
xã hội và Giáo Hội.[131]
46. Ngày nay, bảo vệ môi
sinh không chỉ là vấn đề kỹ thuật mà còn là một bổn phận luân lý vì liên hệ đến
sự sống và phẩm giá của hằng triệu người, trong hiện tại cũng như tương lai.
Thiên Chúa đã trao phó vũ trụ cho con người để họ chăm sóc cách khôn ngoan và
có trách nhiệm, chứ không phải để khai thác cách tàn bạo vì thèm khát lợi nhuận.[132]
Phát triển là để phục vụ con người chứ không thể biến con người thành phương tiện
và nạn nhân của phát triển. Do đó Giáo Hội có trách nhiệm hướng dẫn các tín hữu,
nhất là người trẻ, biết gìn giữ và bảo vệ môi sinh, vì ích lợi của chính họ, của
tha nhân và của cả thế hệ tương lai. Các mục tử nên tổ chức những khóa học về
môi sinh cùng với những hướng dẫn cụ thể trong việc gìn giữ và bảo vệ môi trường
sinh sống của người dân địa phương.
47. Trong thời đại ngày
nay, hơn bao giờ hết, Giáo Hội ý thức được vai trò và tầm quan trọng của các
phương tiện truyền thông đại chúng. Một đàng, các phương tiện truyền thông hiện
đại là tặng phẩm Chúa ban cho Giáo Hội để loan báo Tin Mừng cách rộng rãi và
nhanh chóng,[133] nhưng đàng khác, thực tế cho thấy những phương tiện này có thể
bị lạm dụng, tạo ra chia rẽ, hận thù và phóng túng, gieo rắc lối sống đi
ngược lại với nền văn minh tình thương và sự sống.[134] Vì thế, Giáo Hội
cần hướng dẫn các tín hữu, cách riêng giới trẻ, để họ biết “sử dụng những
phương tiện truyền thông cách hữu ích”.[135] Đồng thời, phải “khuyến khích những
ai tha thiết với lãnh vực này cùng nhau làm việc” để kiến tạo nền văn minh của
tình hợp nhất, tình liên đới và tương trợ trong Giáo Hội và xã hội, bằng cách
phổ biến những giá trị Tin Mừng và nhân bản qua các phương tiện truyền
thông.[136]
KẾT LUẬN
Thưa anh chị em,
48. Đại Hội Dân Chúa đã
được diễn ra như một cử hành phụng vụ để cảm tạ và tôn vinh Thiên Chúa, như một
hội ngộ gia đình để sống tình huynh đệ, đồng thời như một diễn đàn, “để các đại
diện của mọi thành phần Dân Chúa sử dụng quyền tự do thiêng liêng của con cái
Chúa, nói lên những nhận thức của trí tuệ được đức tin soi sáng, những thao thức
của trái tim được đức mến nung nấu, và những khát vọng của ý chí được đức cậy
khơi dậy, nhằm xây dựng và củng cố ngôi nhà Giáo Hội Chúa Kitô giữa lòng quê
hương Việt Nam thân yêu của chúng ta hôm nay và ngày mai”.[137] Chính từ diễn
đàn đó mà Thư Chung này được hình thành.
Thư Chung này được gửi đến
tất cả anh chị em cùng với lòng biết ơn sâu sắc về lời cầu nguyện, những hy
sinh, sự cộng tác nhiệt thành cũng như những góp ý chân thành của anh chị em
cho đời sống và sứ vụ của Giáo Hội.
Thư Chung này cũng được gửi
đến anh chị em với ước mong mỗi giáo phận, dòng tu, giáo xứ, gia đình, sẽ triển
khai thành những hành động và việc làm cụ thể trong đời sống đức tin, góp phần
thi hành sứ mệnh loan báo Tin Mừng trong xã hội hôm nay cách thiết thực và hiệu
quả.
Chúng ta hãy trao gửi mọi
tâm tư ước vọng của mình cho Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, những người đã làm chứng
cho Đạo yêu thương bằng đời sống thấm đậm tinh thần cầu nguyện và bằng cả sự hiến
dâng mạng sống.[138]
Chúng ta hãy trao gửi mọi
dự định mục vụ của Giáo Hội Việt Nam cho Đức Mẹ La Vang. Hợp với Mẹ, chúng ta cất
cao lời ngợi khen và tạ ơn Thiên Chúa về mọi hồng ân Chúa ban trong Năm Thánh
(x. Lc 1, 46-55). Hướng lên Mẹ, chúng ta học sống vâng phục Thánh ý Thiên Chúa
trong mọi hoàn cảnh (x. Mc 3, 34-35; Lc 11, 28; 1, 38). Noi gương Mẹ, chúng ta
vững tin và kiên trì ngay giữa những thử thách và khó khăn mà Giáo Hội phải
đương đầu (x. 2 Pr 1, 5-8; 1 Pr 1, 6-9; Dt 11, 32-39; Rm 8, 37). Cùng với Mẹ,
chúng ta hăng hái lên đường thi hành sứ mệnh loan báo Tin Mừng, góp phần tích cực
vào việc xây dựng nền văn hóa sự sống và văn minh tình thương trên quê hương đất
nước chúng ta.[139]
Maranatha, lạy Chúa
Giêsu, xin ngự đến! (Kh 22, 17, 20; 1 Cr 16, 22)[140]
Thư chung này được chính thức công bố
ngày 01.05.2011, lễ kính Lòng Chúa Thương Xót,
ngày Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II được phong Chân Phước.
Làm tại Trung Tâm Mục Vụ Tổng Giáo Phận TPHCM, ngày
28.04.2011
HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM
Hồng Y Gioan Baotixita Phạm
Minh Mẫn, Tổng giám mục Tổng giáo phận TP.HCM
Giám mục Giuse Nguyễn Chí
Linh, giáo phận Thanh Hóa, Phó chủ tịch HĐGMVN
Giám mục Laurensô Chu Văn
Minh, phụ tá Tổng giáo phận Hà Nội
Giám mục Phêrô Nguyễn Văn
Đệ, SDB, giáo phận Thái Bình
Giám mục Phaolô Nguyễn
Thái Hợp, OP, giáo phận Vinh
Giám mục Giuse Nguyễn
Năng, giáo phận Phát Diệm
Giám mục Giuse Đặng Đức
Ngân, giáo phận Lạng Sơn – Cao Bằng
Giám mục Gioan Maria Vũ Tất,
giáo phận Hưng Hóa
Giám mục Giuse Vũ Văn
Thiên, giáo phận Hải Phòng
Giám mục Giuse Hoàng Văn
Tiệm, SDB, giáo phận Bùi Chu
Giám mục Giuse Nguyễn Văn
Yến, nguyên giám mục giáo phận Phát Diệm
Giám mục Vinh Sơn Nguyễn
Văn Bản, giáo phận Ban Mê Thuột
Giám mục Phanxicô Xaviê
Lê Văn Hồng, phụ tá Tổng giáo phận Huế
Giám mục Matthêô Nguyễn
Văn Khôi, giám mục phó giáo phận Quy Nhơn
Giám mục Giuse Võ Đức
Minh, giáo phận Nha Trang
Giám mục Micae Hoàng Đức
Oanh, giáo phận Kon Tum
Giám mục Giuse Châu Ngọc
Tri, giáo phận Đà Nẵng
Giám mục Antôn Vũ Huy
Chương, giáo phận Đà Lạt
Giám mục Phaolô Bùi Văn Đọc,
giáo phận Mỹ Tho
Giám mục Tôma Vũ Đình Hiệu,
phụ tá giáo phận Xuân Lộc
Giám mục Phêrô Nguyễn Văn Khảm, phụ tá Tổng giáo phận TP.HCM,
Phó tổng thư ký HĐGMVN
Giám mục Tôma Nguyễn Văn
Tân, giáo phận Vĩnh Long
Giám mục Têphanô Tri Bửu
Thiên, giáo phận Cần Thơ
Giám mục Giuse Vũ Duy Thống,
giáo phận Phan Thiết
Giám mục Giuse Trần Xuân
Tiếu, giáo phận Long Xuyên
Giám mục Tôma Nguyễn Văn
Trâm, giáo phận Bà Rịa
Giám mục Đaminh Nguyễn
Chu Trinh, giáo phận Xuân Lộc
Giám mục Phêrô Trần Đình
Tứ, giáo phận Phú Cường
Giám mục Giuse Nguyễn Tấn
Tước, giám mục phó giáo phận Phú Cường
Tổng Thư ký HĐGMVN Chủ tịch HĐGMVN
(đã ký) (đã
ký)
+ Cosma Hoàng Văn Đạt, SJ + Phêrô Nguyễn Văn Nhơn
Giám mục GP. Bắc Ninh Tổng Giám mục TGP Hà Nội
–––––––––––––––––––––––––––––––––––––––
[1] x. Đề cương “Giáo hội
tại Việt Nam: Mầu Nhiệm - Hiệp Thông - Sứ Vụ”, (từ đây viết tắt: Đề cương), số
1; Tài liệu làm việc, số 1.
[2] x. Sách lễ Roma, Kinh
tiền tụng lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ; cũng x. Sứ Điệp của Đại Hội Dân Chúa Việt
Nam 2010.
[3] x. Đề cương, số 3; Hội
Đồng Giám Mục Việt Nam (từ đây viết tắt: HĐGMVN), Thư chung 1992, số 2; Thư
chung 2001 “Để Họ Được Sống Dồi Dào”, số 2.
[4] x. Đề cương, số 3;
HĐGMVN, Thư chung 1992, số 3.
[5] x. Đề cương, số 3.
[6] x. FABC VII, Part
II.A trong For All the Peoples of Asia, (từ đây viết tắt: For All) biên soạn do
Eilers, Franz-Josef, vol. 3, trg. 6; HĐGMVN, Thư chung 1992, số 5, 6; Tài liệu
Mục vụ chuẩn bị mừng Năm Thánh 2000, c. Năm thứ ba (1999): Thiên Chúa Cha, “Phục
vụ sự thăng tiến con người”; Thư chung 1998 “Hướng Về Năm Thánh 2000”, số 5.
[7] x. Đề cương, số 3, 5;
HĐGMVN, Thư chung 1998 “Hướng Về Năm Thánh 2000”, số 5.
[8] x. Đề cương, số 3, 5;
HĐGMVN, Thư chung 1998 “Hướng Về Năm Thánh 2000”, số 10-11.
[9] x. Giám mục Matthêô
Nguyễn Văn Khôi, “Về Việc Giáo Dục Lương Tâm trong Bối Cảnh Truyền Giáo tại Việt
Nam”, Tham luận tại Đại Hội Dân Chúa, 24.11.2010.
[10] x. HĐGMVN, Thư chung
1992, số 6.
[11] x. Đề cương, số 5;
HĐGMVN, Thư chung 2007 “Giáo Dục Hôm Nay, Xã Hội và Giáo Hội Ngày Mai”, số 2,
8, 11; Thư chung 1992, số 6.
[12] x. HĐGMVN, Thư chung
2007 “Giáo Dục Hôm Nay, Xã Hội và Giáo Hội Ngày Mai”, số 11-14.
[13] x. Đề cương, số 5.
[14] x. Đề cương, số 4.
[15] x. Đề cương, số 4.
[16] x. HĐGMVN, Thư chung
2007, số 11-15, 34-38; Thư chung 2008, số 10-12; Thư chung 2002, số 3; Thư
chung 1992, số 9-15.
[17] x. HĐGMVN, Thư chung
2007 “Giáo Dục Hôm Nay, Xã Hội và Giáo Hội Ngày Mai”, số 32-33; Thư chung 2008
“Về Môi Trường Giáo Dục Gia Đình Công Giáo”, số 17-18; Giám mục Cosma Hoàng Văn
Đạt, SJ “Sống mầu nhiệm Giáo hội trên quê hương”, Tham luận tại Đại Hội Dân
Chúa, 22.11.2010.
[18] Hồng y Ivan Dias,
Bài giảng lễ Bế Mạc Năm Thánh 2010; cũng x. Đề cương, số 6; HĐGMVN, Thư chung
2003 “Sứ Mạng Loan Báo Tin Mừng của Hội Thánh Việt Nam Hôm Nay”, số 7-8; Thư
chung 2001 “Để Họ Được Sống Dồi Dào”, số 9-10; Thư chung 1989 “Hiệp Nhất, Mục Vụ,
Sống và Chia Sẻ Niềm Vui”.
[19] x. Vatican II, LG 9.
[20] x. Vatican II, SC
41, 26; LG 23; CD 11.
[21] x. Vatican II, LG 6,
9; GS 24.
[22] x. Vatican II, LG 9,
13; cũng x. Gioan Kim Khẩu, In Jo., bài giảng 65, 1l PG 59, 361.
[23] x. Vatican II, LG 9;
2-4;
[24] x. Vatican II, LG 1;
GS 45, 38.
[25] x. Vatican II, GS
40, 24, 32, 42, 92.
[26] x. Sách Lễ Roma, lời
nguyện Thứ Sáu Tuần Thánh.
[27] x. Đề nghị 1.
[28] x. HĐGMVN, Thư chung
2004 “Giáo Hội Sống Mầu Nhiệm Thánh Thể”, số 7; The Asian Synod, biên soạn do
Peter C. Phan, 2002, tr. 50.
[29] x. Đề nghị 1.
[30] x. Đức Bênêđictô
XVI, bài giảng tại giáo xứ mới St. Corbinian ngày 20.3.2011.
[31] x. Đề nghị 17.
[32] x. PC 6; DV 25;
HĐGMVN, Thư chung 2005 “Sống Lời Chúa”.
[33] Đề nghị 3; cũng x. Đức
Bênêđictô XVI, Verbum Domini 85.
[34] x. Đức Bênêđictô
XVI, Verbum Domini 74.
[35] x. Đề nghị 3; Đức
Bênêđictô XVI, Verbum Domini 77-85.
[36] x. Lectio divina là
một phương pháp cầu nguyện dựa trên Lời Chúa, gồm bốn bước: đọc, suy niệm,
chiêm ngắm, thực hành; Đức Bênêđictô XVI, Verbum Domini 86-87.
[37] x. HĐGMVN, Thư chung
2007 “Giáo Dục Hôm Nay, Xã Hội và Giáo Hội Ngày Mai”, số 26-31; Tài liệu làm việc,
số 26; Đề cương, số 35-38.
[38] x. Đề nghị 2.
[39] x. Đề nghị 21, 22.
[40] x. Vatican II, LG 7;
GLGHCG 790-791; Đề cương, số 10; Tài liệu làm việc, số 5.
[41] x. Vatican II, SC 6,
41; Đức Bênêđictô XVI, Sacramentum Caritatis 94, 77-78.
[42] x. Đức Bênêđictô
XVI, Sacramentum Caritatis 14-15; Đức Gioan Phaolô II, Ecclesia de Eucharistia
22, 20.
[43] x. Đức Bênêđictô
XVI, Sacramentum Caritatis 6-13; Đức Gioan Phaolô II, Ecclesia de Eucharistia
11-24; HĐGMVN, Thư chung 2004 “Giáo Hội Sống Mầu Nhiệm Thánh Thể”, số 2-12.
[44] x. Đức Bênêđictô
XVI, Sacramentum Caritatis 36-55, 72-76; Đề nghị 6.
[45] x. Đề nghị 6; Tài liệu
làm việc, số 14; Đức Bênêđictô XVI, Sacramentum Caritatis 66-69; Đức Gioan
Phaolô II, Ecclesia de Eucharistia 25.
[46] x. Vatican II, LG 8;
Đức Gioan Phaolô II, Reconciliatio et Paenitentia 5-6.
[47] x. HĐGMVN, Tài liệu
mục vụ chuẩn bị mừng Năm thánh 2000, số II, 2-3; Đức Gioan Phaolô II,
Reconciliatio et Paenitentia 20-22.
[48] x. Đề nghị 6; Đức
Gioan Phaolô II, Reconciliatio et Paenitentia 28-31.
[49] x. Tài liệu làm việc,
số 6; Đề cương, số 11.
[50] x. Đề nghị 4. x. Bài
giảng của Đức hồng y Ivan Dias, Lễ bế mạc Năm Thánh 2010 tại La Vang.
[51] x. Vatican II, SC 2.
[52] Tài liệu làm việc, số
7.
[53] x. Đức Gioan Phaolô
II, Ecclesia de Eucharistia 35; Tài liệu làm việc, số 7.
[54] x. Đức Bênêđictô
XVI, Huấn từ dành cho HĐGMVN nhân dịp Ad limina 2009, ngày 27.06.2009.
[55] x. Đề nghị 2, 7, 16,
19, 26.
[56] x. Đức Gioan Phaolô
II, Ecclesia in Asia 21-22; FABC/International Congress on Mission 14, trong
For All, vol. 1, 130tt; Tài liệu làm việc, số 8.
[57] x. Vatican II, GS
58, 61.
[58] x. Vatican II, GS
38, 61; Đề nghị 23.
[59] x. Vatican II, GS
58.
[60] x. Đề nghị 7, 23.
[61] x. Đề nghị 8, 7, 23.
[62] x. Đề cương, số 13.
[63] x. Đức Phaolô VI,
The Teachings of Pope Paul VI, 1970, tr. 192.
[64] Tài liệu làm việc, số
10.
[65] Đề cương, số 14.
[66] x. Vatican II, GS
39.
[67] x. Vatican II, GS
39, 42-44.
[68] x. Vatican II, GS
13, 27, 30.
[69] x. Vatican II, GS 1,
27-30; Đức Gioan Phaolô II, Redemptor Hominis 11-12, 19, 22.
[70] x. Sứ điệp của Đại Hội
Dân Chúa Việt Nam 2010.
[71] x. Vatican II, LG 4.
[72] x. Đức Phaolô VI,
“Opening Address of the Second Session”, trong Council Speeches of Vatican II,
do H. Kung, Yves Congar và D. O’Hanlon biên soạn, Deus Books, (NY 1964), tr.
19; Đề cương số 8.
[73] x. Tài liệu làm việc,
số 6.
[74] x. Tài liệu làm việc,
số 12.
[75] x. Tài liệu làm việc,
số 12.
[76] x. Giám mục Phaolô
Bùi Văn Đọc, “Giáo Hội Hiệp Thông theo Mô Hình Hiệp Thông của Ba Ngôi Thiên
Chúa”, Tham luận tại Đại Hội Dân Chúa, 23.11.2010.
[77] Thánh thi Ubi
caritas.
[78] x. Vatican II, LG
23.
[79] x. Tài liệu làm việc,
số 15.
[80] x. Vatican II, LG 9;
GLHTCG 782.
[81] X. Đề nghị 9.
[82] x. Tài liệu làm việc,
số 16.
[83] x. Vatican II, LG
23.
[84] x. Đề nghị 11, 20,
21.
[85] x. Đề nghị 11.
[86] x. Đề nghị 11.
[87] x. Đề nghị 12.
[88] x. Vatican II, GS
39, 45.
[89] x. Tài liệu làm việc,
số 2, 9, 13.
[90] Vatican II, LG 1.
[91] Đức Bênêđictô XVI, Sứ
điệp Ngày Thế Giới Truyền Giáo 2010.
[92] x. Vatican II, AG 2;
Đức Gioan Phaolô II, Redemptoris Missio.
[93] x. Đức Bênêđictô
XVI, Verbum Domini 46, 121-123.
[94] Đề nghị 16.
[95] x. Đức Phaolô VI,
Evangelii Nuntiandi 22; Đức Gioan Phaolô II, Ecclesia in Asia 19-20.
[96] x. Đức Phaolô VI,
Evangelii Nuntiandi 17; Đức Gioan Phaolô II Ecclesia in Asia 31.
[97] x. Thượng Hội Đồng
Giám Mục, Justice in the World, 1971.
[98] x. Đức Bênêđictô
XVI, Caritas in veritate, số 2.
[99] Đức Bênêđictô XVI,
Huấn từ dành cho HĐGMVN nhân dịp Ad limina 2009.
[100] x. Đề nghị 27.
[101] x. Tài liệu làm việc,
số 19.
[102] x. Đề nghị 26; 17.
[103] Đức Bênêđictô XVI,
Huấn từ Ad limina 2009.
[104] Đức Gioan Phaolô
II, Ecclesia in Asia 23.
[105] x. HĐGMVN, Thư
chung 2003 “Sứ Mạng Loan Báo Tin Mừng của Hội Thánh Việt Nam Hôm Nay”, số 9, 11;
Thư chung 1980.
[106] x. Đức Phaolô VI,
Evangelii Nuntiandi 41; FABC, Appendix, Conclusions of the Theological
Consultation, 23-25, trong For All, Vol. 1, trg. 340; Đề cương, số 33.
[107] x. Đề nghị 16; 17;
21; HĐGMVN, Thư chung 2007 “Giáo Dục Hôm Nay, Xã Hội và Giáo Hội Ngày Mai”, số
27.
[108] Đề nghị 26.
[109] x. Đề nghị 26.
[110] x. Vatican II, GS
22; Đức Gioan Phaolô II, Redemptor Hominis 7-11.
[111] Tài liệu làm việc số
26.
[112] x. Vatican II,
Tuyên ngôn về Giáo Dục 1-3; Tài liệu làm việc, số 26.
[113] Đề nghị 26; HĐGMVN,
Thư chung 2008 “Về Môi Trường Giáo Dục Gia Đình Công Giáo”, số 16.
[114] x. Đức Phaolô VI,
Evangelii Nuntiandi 75-79; Vatican II, GS 92; Đức Gioan Phaolô II, Ecclesia in
Asia 29.
[115] x. Tổng Giám mục
Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, chủ tịch HĐGMVN, “Lời chào mừng dịp lễ bế mạc Năm
Thánh”, Hiệp Thông 63, tr. 116.
[116] x. Vatican II, GS
45, 93.
[117] x. Đề nghị 25; x.
Vatican II, GS 92.
[118] x. Đức Bênêđictô
XVI, Deus caritas est 18; Vatican II, GS 27; HĐGMVN, Thư chung 2001 “Để Họ Được
Sống Dồi Dào”, số 11.
[119] x. Tài liệu làm việc,
số 23.
[120] Vatican II, GS 19.
[121] x. Đề nghị 17;
HĐGMVN, Thư chung 1992, số 18; Thư chung 2002 “Thánh Hóa Gia Đình”, số 6-7.
[122] HĐGMVN, Thư chung
1992, số 12
[123] x. Tài liệu làm việc
số 29; HĐGMVN, Thư chung 2002 “Thánh Hóa Gia Đình”, số 8.
[124] x. Đề cương số 3.
[125] x. Tài liệu làm việc
số 30; HĐGMVN, Thư chung 2001 “Để Họ Được Sống Dồi Dào”, số 20.
[126] Đề nghị 19.
[127] x. Đề nghị 19.
[128] Đức Bênêđictô XVI,
Huấn từ Ad limina 2009.
[129] Đề nghị 20.
[130] Đề nghị 20.
[131] x. Đề nghị 20.
[132] x. Đức Gioan Phaolô
II, Ecclesia in Asia 41.
[133] x. Vatican II, Sắc
lệnh về Truyền Thông 2.
[134] x. Vatican II, Sắc
lệnh về Truyền Thông 2, 12-13.
[135] Đề nghị 28; cũng x.
Vatican II, Sắc lệnh về Truyền Thông 5, 10.
[136] x. Đề nghị 28;
Vatican II, Sắc lệnh về Truyền Thông 21-22.
[137] Tổng Giám mục Phêrô
Nguyễn Văn Nhơn, chủ tịch HĐGMVN, Bài giảng Lễ khai mạc Đại Hội Dân Chúa 2010.
[138] x. Tài liệu làm việc,
số 16.
[139] x. Đề cương, số 44;
Tài liệu làm việc, số 32.
[140] x. HĐGMVN, Thư
chung 1999 “Hãy Vui Lên”, số 2.
MỤC LỤC
Dẫn nhập (số 1-3)
Chương I: Hiện trạng xã hội
Việt Nam dưới ánh sáng đức tin
Tiến trình toàn cầu hóa
(4)
Những thay đổi trong xã hội
(5)
Nền kinh tế thị trường
(6)
Văn hóa giáo dục (7)
Truyền thống tôn giáo (8)
Tương tác giữa kinh tế xã
hội và tôn giáo (9)
Chương II: Mầu nhiệm Giáo
Hội
Dân Thiên Chúa, Gia đình
của Thiên Chúa (10 – 11)
Nhiệm thể Đức Kitô (12)
Đền thờ Chúa Thánh Thần
(13)
Đặc tính thần-nhân của
Giáo Hội (14)
Hội nhập văn hóa và tính
bản địa (15)
Giáo Hội và Nước Thiên
Chúa (16)
Hiệp thông các thánh (17)
Giáo Hội lữ hành (18)
Mở ra cho hiệp thông và sứ
vụ (19)
Chương III : Hiệp thông
trong gia đình của Thiên Chúa
Giáo lý về hiệp thông
(20)
Hiệp thông với Giáo Hội
phổ quát (21)
Hiệp thông với Giáo Hội tại
Châu Á (22)
Hiệp thông trong giáo phận
(23)
Hiệp thông với hàng giáo
phẩm (24)
Hàng giáo sĩ và giám mục
(25)
Các tu sĩ (26)
Sự tham gia của giáo dân
(27)
Nữ giới trong Giáo Hội
(28)
Người trẻ (29)
Hiệp thông, chìa khóa của
sứ vụ (30)
Chương IV : Loan báo Tin
Mừng trong hoàn cảnh ngày nay
Truyền giáo là bản chất của
Giáo Hội (31)
Sứ vụ duy nhất và toàn diện
(32)
Giáo Hội và xã hội (33)
Tính cộng đoàn của sứ vụ
(34)
Hoạt động tông đồ và đời
sống chiêm niệm (35)
Loan báo Tin Mừng với
cung cách của Đức Giêsu (36)
Giáo dục (37)
Giáo dục lương tâm (38)
Đối thoại (39)
Đối thoại với các tôn
giáo (40)
Đối thoại với người nghèo
(41)
Đối thoại với người không
tôn giáo (42)
Mục vụ gia đình (43)
Mục vụ giới trẻ (44)
Mục vụ di dân (45)
Bảo vệ môi sinh (46)
Mục vụ truyền thông (47)
Kết luận (48)