SỨ ĐIỆP CỦA ĐỨC THÁNH CHA
NHÂN NGÀY THẾ GIỚI NGƯỜI NGHÈO
LẦN THỨ 5 – CHÚA NHẬT 33 THƯỜNG NIÊN
NGÀY 14.11.2021
“Người nghèo, các ông sẽ luôn có
bên mình” (Mc 14,7)
1. “Người nghèo, các ông sẽ
luôn có bên mình” (Mc 14,7). Chúa Giêsu đã nói những lời này trong
khuôn khổ một bữa ăn ở Bêtania, tại nhà của một Simon nào đó được gọi là “phong
hủi”, một vài ngày trước lễ Vượt qua. Như thánh ký kể, một người phụ nữ đi vào
với một bình bạch ngọc đựng dầu thơm rất quý giá và đã đổ dầu thơm trên đầu
Chúa Giêsu. Cử chỉ này đã gây ra sự ngạc nhiên sửng sốt và dẫn đến hai kiểu giải
thích khác nhau.
Lối giải thích đầu tiên là
sự phẫn nộ của một số người trong số những người có mặt, bao gồm cả các môn đệ
mà, tính toán giá trị của dầu thơm – khoảng 300 quan tiền, tức tương đương với
tiền lương hằng năm của một công nhân – , đã nghĩ rằng thà bán nó và bố thí cho
người nghèo thì hơn. Theo Tin Mừng Gioan, chính Giuđa là người giải thích lập
trường này: “Tại sao không bán dầu thơm
này lấy ba trăm quan tiền rồi cho người nghèo?”. Và thánh ký ghi lại: “Anh ta nói như thế, không phải vì lo cho người
nghèo, nhưng vì anh ta là một tên trộm: anh ta giữ túi tiền và thường lấy những
gì người ta bỏ vào đó” (12, 5-6). Không phải ngẫu nhiên nếu lời phê
bình gay gắt này đến từ miệng của kẻ phản bội: đó là bằng chứng cho thấy những
ai không nhìn nhận người nghèo thì phản bội lại giáo huấn của Chúa Giêsu và
không thể là môn đệ của Ngài. Về điều này, chúng ta hãy nhớ lại những lời rất mạnh
mẽ của Origène: “Giuđa có vẻ quan tâm đến
người nghèo […]. Cả bây giờ nữa nếu có ai giữ túi tiền của Giáo hội và nói cho
người nghèo như Giuđa, nhưng lại lấy những gì người ta bỏ vào đó, thì như thế y
có phần của mình với Giuđa” (Chú giải Tin Mừng Matthêu 11, 9).
Lối giải thích thứ hai do chính Chúa Giêsu đưa ra và cho
phép nắm bắt ý nghĩa sâu xa của cử chỉ mà người phụ nữ đã làm. Ngài nói: “Cứ để mặc cô ấy ! Tại sao làm khổ cô ấy ?
Thật cao đẹp cử chỉ mà cô ấy đã làm cho tôi” (Mc 14,6). Chúa Giêsu biết
rằng cái chết của Ngài đến gần và nhìn thấy nơi cử chỉ này lời tiên báo về việc
xức dầu cho thi thể của Ngài trước khi được đặt vào trong mồ. Quan điểm này vượt
quá mọi mong đợi của khách dự tiệc. Chúa Giêsu nhắc cho họ rằng người nghèo đầu tiên, chính là Ngài, người
nghèo nhất trong số những người nghèo bởi vì Ngài đại diện cho tất cả họ.
Và cũng nhân danh những người nghèo, những người cô độc, bị gạt bên lề xã hội
và phân biệt kỳ thị mà Con Thiên Chúa chấp nhận cử chỉ của người phụ nữ này. Bằng
sự nhạy cảm nữ tính của mình, cô đã cho thấy rằng cô là người duy nhất hiểu được
tâm tư của Chúa. Người phụ nữ vô danh này – có thể được dự định đại diện cho
toàn thể thế giới phụ nữ mà, qua hàng thế kỷ, không có quyền ăn nói và chịu bạo
hành – khai mào cho sự hiện diện đầy ý nghĩa của những người nữ tham dự vào các
biến cố cao điểm của cuộc đời của Chúa Kitô: chịu đóng đinh, cái chết và việc
mai táng cũng như việc hiện ra với tư cách là Đấng Phục Sinh. Phụ nữ, rất
thường bị phân biệt kỳ thị và đứng ngoài vòng các vị trí trách nhiệm, trái lại,
trong các trang Tin Mừng, là những nhân vật chính trong lịch sử của mạc khải. Lời
nói sau cùng của Chúa Giêsu, liên kết người phụ nữ này với sứ mạng cao cả loan
báo Tin Mừng, là rất hùng hồn: “Quả thật,
tôi bảo các ông: bất cứ nơi nào Tin Mừng được loan báo – trên toàn thế giới –
người ta sẽ sẽ kể lại những gì cô vừa làm để nhớ đến cô” (Mc 14,9).
2. Sự “đồng cảm”
mạnh mẽ này giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ, và cách thức mà Ngài giải thích việc
xức dầu của mình tương phản với cái nhìn đầy tai tiếng của Giuđa và của những
người khác, mở ra một con đường suy tư phong nhiêu về mối liên hệ bất khả phân ly giữa Chúa Giêsu, người nghèo và việc loan
báo Tin Mừng.
Quả thế, khuôn mặt của Thiên Chúa mà Ngài mạc khải là khuôn
mặt của một người Cha đối với người nghèo và gần gũi người nghèo. Tất cả công
việc của Chúa Giêsu đều khẳng định rằng sự nghèo đói không phải là kết quả của
số phận, nhưng là dấu chỉ cụ thể của sự hiện diện của Ngài giữa chúng ta. Chúng
ta không nhận ra Ngài khi nào và ở đâu chúng ta muốn, nhưng chúng ta nhận ra
Ngài nơi cuộc sống của người nghèo, trong sự đau khổ và khốn cùng của họ, trong
những điều kiện đôi khi phi nhân trong đó họ buộc phải sống. Tôi không mệt mỏi
lặp đi lặp lại rằng người nghèo là những người loan báo Tin Mừng đích thực bởi
vì họ đã là những người đầu tiên được loan báo Tin Mừng và được mời gọi chia sẻ
hạnh phúc của Chúa và Nước của Ngài (x. Mt 5,3).
Người nghèo trong mọi hoàn cảnh và mọi miền loan báo Tin Mừng
cho chúng ta, vì họ cho phép chúng ta tái khám phá cách luôn mới mẻ những nét
đích thực nhất của dung mạo của Chúa Cha. “Họ
có nhiều điều để dạy chúng ta. Ngoài việc tham dự vào cảm thức đức tin, qua những
nỗi thống khổ của mình, họ nhận biết Chúa Giêsu đau khổ. Điều cần thiết là tất
cả chúng ta phải để cho họ Phúc Âm hóa chúng ta. Việc tân Phúc Âm hóa là một lời
mời gọi nhận ra sức mạnh cứu độ trong cuộc sống của họ, và đặt họ ở trung tâm
hành trình của Giáo hội. Chúng ta được mời gọi khám phá Chúa Kitô nơi họ, sẵn
sàng lên tiếng cho chính nghĩa của họ, nhưng còn trở nên bằng hữu của họ, lắng
nghe họ, hiểu họ và đón nhận sự khôn ngoan huyền nhiệm mà Thiên Chúa muốn thông
ban cho chúng ta qua họ. Sự dấn thân của chúng ta không chỉ hệ tại nơi những
hành động hay những chương trình thăng tiến và trợ giúp ; những gì mà Chúa
Thánh Thần khơi dậy không phải là đầy dẫy các hoạt động, nhưng trước tiên là cả
một sự quan tâm đến người khác mà ngài xem như là một với Ngài. Sự quan tâm yêu
thương này là khởi đầu của một sự quan tâm đích thực đối với con người của họ,
mà tôi ước ao tìm kiếm cách hữu hiệu thiện ích của họ” (Tông huấn Evangelii gaudium, số 198-199).
3. Chúa Giêsu
không chỉ ở bên cạnh người nghèo, nhưng chia sẻ cùng số phận với họ. Đó cũng là một giáo huấn mạnh mẽ
cho các môn đệ của Ngài thuộc mọi thời đại. Những lời của Ngài “người nghèo,
các ông sẽ luôn có bên mình” cũng chỉ ra điều này: sự hiện diện của họ giữa
chúng ta là thường xuyên, nhưng sự hiện diện này không được dẫn đến một thói
quen trở thành sự dửng dưng, nhưng bao hàm trong việc chia sẻ cuộc sống vốn
không chấp nhận giấy ủy quyền. Người nghèo không phải là những người “ở bên
ngoài” cộng đoàn, nhưng là những anh chị em cùng chia sẻ nỗi đau khổ, để giảm bớt
sự túng thiếu và việc bị gạt sang bên lề của họ, để chúng ta trả lại phẩm giá
đã mất cho họ và đảm bảo cho họ sự hội nhập xã hội cần thiết. Vả lại, chúng ta
biết rằng một cử chỉ từ thiện giả định trước một nhà hảo tâm và một người hưởng
nó, đang khi việc chia sẻ sinh ra tình huynh đệ. Bố thí là ngẫu nhiên ; đang khi chia sẻ là bền vững. Bố thí có
nguy cơ ban thưởng cho người bố thí và hạ thấp người lãnh nhận ; chia sẻ củng
cố tình liên đới và đặt ra những điều kiện cần thiết để đạt tới công lý. Tóm lại,
khi muốn nhận ra Chúa Giêsu nơi con người và chạm đến Ngài bằng đôi tay của
mình, các tín hữu cần biết hướng về ai: người nghèo là một bí tích của Chúa
Kitô ; họ hiện thân con người của Ngài và hướng chúng ta đến Ngài.
Chúng ta có biết
bao mẫu gương của các thánh nam và thánh nữ đã chia sẻ với người nghèo
kế hoạch sống của họ. Trong số họ, tôi nghĩ đến cha Damien de Veuster, một vị
thánh, tông đồ của người phong hủi. Với lòng quảng đại lớn lao, ngài đã đáp lại
tiếng gọi đi đến đảo Molokai, nơi đã trở thành một khu ổ chuột chỉ dành cho người
phong hủi, để sống và chết với họ. Ngài đã xắn tay áo và làm tất cả để làm cho
cuộc sống của những người nghèo bệnh tật và bị gạt bên lề xã hội vốn xuống cấp
trầm trọng này, được sống cách xứng với phẩm giá. Ngài đã trở thành bác sĩ và y
tá, không quan tâm đến những nguy cơ mà ngài phải đối mặt và trong “thuộc địa của
cái chết” này, như người ta đã gọi hòn đảo, ngài đã mang lại ánh sáng của tình
yêu. Ngài cũng bị mắc bệnh phong hủi, dấu chỉ của sự chia sẻ hoàn toàn với anh
chị em mà ngài đã hiến dâng mạng sống của mình. Chứng tá của ngài là rất thời sự
trong những ngày ghi dấu đại dịch coronavirus này: chắc chắn ân sủng của Thiên
Chúa đang hành động nơi tâm hồn của nhiều người mà, trong sự âm thầm, đang tiêu
hao chính mình cho những người nghèo nhất bằng sự chia sẻ cụ thể.
4. Vì thế, chúng
ta phải hoàn toàn tin tưởng vào lời mời gọi của Chúa: “Hãy hoán cải và tin vào
Tin Mừng” (Mc 1,15). Sự hoán cải này
trước hết hệ tại mở rộng tâm hồn chúng ta để nhận ra những biểu hiện muôn mặt của
sự nghèo đói và biểu lộ Nước Thiên Chúa bằng một lối sống phù hợp với đức tin
mà chúng ta tuyên xưng. Người nghèo thường được coi như là những người bị tách
rời, như một phạm trù đòi hỏi một việc phục vụ từ thiện đặc biệt. Về phương diện
này, bước theo Chúa Giêsu ngụ ý một sự thay đổi não trạng, tức là chấp nhận
thách đố của việc chia sẻ và tham dự. Trở nên môn đệ của Ngài ngụ ý sự chọn lựa
không tích trữ kho tàng trên trần gian, vốn mang lại ảo tưởng an toàn, mà trên
thực tế là mong manh và chóng qua.
Trái lại, điều đó đòi hỏi sự sẵn sàng giải thoát mình khỏi mọi
mối liên hệ ngăn cản đạt tới niềm hạnh phúc và phúc kiến đích thực, để nhìn nhận
những gì là bền vững và không thể bị phá hủy bởi bất cứ điều gì và bất cứ ai
(x. Mt 6,19-20).
Ở đây, giáo huấn của Chúa Giêsu cũng lội ngược dòng, vì Ngài
hứa những gì mà chỉ đôi mắt đức tin mới có thể nhìn thấy và cảm nghiệm bằng một
niềm xác tín hoàn toàn: “Ai bỏ nhà cửa,
anh em, chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất, vì danh Thầy, thì sẽ nhận được gấp
bội và còn được sự sống đời đời làm gia nghiệp” (Mt 19,29). Nếu chúng
ta không chọn trở nên nghèo khó về của cải chóng qua, về quyền lực thế gian và
về thói khoe khoang, thì chúng ta sẽ không bao giờ có thể hiến mạng sống mình
vì tình yêu ; chúng ta sẽ sống một cuộc sống phân mảnh, đầy những ý định tốt
lành, nhưng không hữu hiệu để biến đổi thế giới. Vì thế, vấn đề là dứt khoát mở
lòng ra cho ân sủng của Chúa Kitô, Đấng có thể biến chúng ta thành những
chứng nhân cho tình yêu vô bờ bến của Ngài và mang lại tính khả tín cho sự hiện
diện của chúng ta trong thế giới.
5. Tin Mừng của
Chúa Kitô thúc giục quan tâm đặc biệt đến người nghèo và đòi hỏi nhận ra nhiều
hình thức, quá nhiều hình thức hỗn độn
luân lý và xã hội vốn luôn tạo ra những hình thức nghèo đói mới. Quan
niệm cho rằng người nghèo không chỉ chịu trách nhiệm về hoàn cảnh của họ nhưng
còn là một gánh nặng không chịu nổi đối với một hệ thống kinh tế vốn đặt lợi
ích của một số nhóm đặc quyền đặc lợi ở trung tâm, dường như đạt đích điểm. Một
thị trường không biết đến hoặc chọn lọc những nguyên tắc đạo đức sẽ tạo ra những
điều kiện phi nhân vốn tác động đến những người đang sống trong những hoàn cảnh
bấp bênh. Như thế, chúng ta đang chứng kiến việc tạo ra những cái bẫy luôn luôn
mới mẻ về sự khốn khổ và loại trừ, được tạo nên bởi các tác nhân kinh tế và tài chính vô đạo đức, thiếu đi ý thức nhân đạo
và trách nhiệm xã hội.
Năm vừa rồi, một tai họa khác đã được thêm vào, càng làm
nhân tăng những người nghèo khổ: cơn đại dịch. Nó tiếp tục gõ cửa hàng triệu
người và, khi nó không mang lại đau khổ và cái chết cùng với nó, thì dù sao nó
vẫn mang đến sự nghèo đói. Con số người nghèo đã gia tăng quá nhiều và, thật
không may, nó sẽ còn tiếp tục trong những tháng tới. Một số nước đang phải chịu
những hậu quả rất nghiêm trọng của đại dịch, đến độ những người dễ bị tổn
thương nhất thấy mình bị tước đi những thiện ích thiết yếu hàng đầu. Những hàng
dài chờ đợi trước căng tin dành cho người nghèo là dấu hiệu hữu hình của sự gia
trọng này. Việc xem xét chăm chú đòi hỏi chúng ta tìm ra những giải pháp thích
hợp nhất để đấu tranh chống lại virút này trên toàn thế giới, mà không nhắm đến
lợi ích đảng phái. Cách đặc biệt, điều cấp bách là mang lại những câu trả lời cụ
thể cho những người đang chịu thất nghiệp, tác động cách thê thảm đến nhiều người
cha gia đình, người nữ và người trẻ. Tình liên đới xã hội và lòng quảng đại mà
nhiều người, nhờ ơn Chúa, có khả năng đó, được kết hợp với các kế hoạch sáng suốt
thăng tiến con người, đang và sẽ mang lại một sự đóng góp rất quan trọng về
phương diện này.
6. Tuy nhiên, câu
hỏi, vốn không hiển nhiên về bất cứ mặt nào, vẫn còn bỏ ngỏ: làm thế nào chúng
ta có thể mang lại một câu trả lời xác thực cho hàng triệu người nghèo vốn thường
tìm thấy sự dửng dưng như là câu trả lời duy nhất, nếu không phải là sự bực tức
khó chịu ? Con đường công lý nào cần phải đi theo để những bất công xã hội
có thể được khắc phục và để phẩm giá con người, rất thường bị chà đạp, được tái
lập ? Lối sống cá nhân chủ
nghĩa là đồng lõa với sự nghèo đói, và thường trút lên vai người nghèo mọi
trách nhiệm về thân phận của họ. Nhưng sự nghèo đói không phải là kết quả của số
phận, nó là một hậu quả của tính ích kỷ. Vì thế, điều quan trọng là
đưa vào những tiến trình phát triển nâng cao giá trị các khả năng của mọi người,
để sự bổ túc các năng lực và sự đa dạng các vai trò dẫn đến một nguồn lực tham
gia chung. Nhiều cái nghèo của “người giàu” có thể được chữa lành bằng sự giàu
có của “người nghèo”, nếu ít ra họ được gặp gỡ và hiểu biết nhau ! Không
ai nghèo đến nỗi không thể cho đi một điều gì đó của chính mình trong sự hỗ
tương. Người nghèo không chỉ là những người nhận ; họ phải được đặt trong
điều kiện có thể cho đi, bởi vì họ biết rõ làm điều đó như thế nào. Trước mắt
chúng ta có biết bao mẫu gương chia sẻ ! Người nghèo thường dạy chúng ta về
tình liên đới và sự chia sẻ. Đúng thế, những người này thiếu điều gì đó, họ thường
thiếu nhiều và thậm chí cái cần thiết, nhưng họ không thiếu tất cả, bởi vì họ bảo
toàn phẩm giá con cái Thiên Chúa của họ mà không gì và không ai có thể lấy đi.
7. Đó là lý do tại
sao một lối tiếp cận khác về sự
nghèo đói là cần thiết. Đó là một thách đố mà các chính phủ và các tổ chức
toàn cầu phải đối mặt với một mô hình xã hội hướng đến tương lai, có khả năng đối
mặt với những hình thức nghèo đói mới đang tác động đến thế giới và sẽ đánh dấu
cách quyết định những thập niên sắp tới. Nếu người nghèo bị gạt sang bên lề xã
hội, như thể họ chịu trách nhiệm về thân phận của họ, thì như thế chính khái niệm
về dân chủ sẽ bị khủng hoảng và mỗi chính sách xã hội sẽ trở nên suy yếu. Chúng
ta phải hết sức khiêm tốn thừa nhận rằng chúng ta thường thiếu khả năng trước
người nghèo. Chúng ta nói về họ cách trừu tượng, chúng ta dừng lại ở các số liệu
thống kê và mủi lòng trước bộ phim tài liệu nào đó. Trái lại, sự nghèo đói phải
dẫn đến một quan niệm sáng tạo, cho phép gia tăng sự tự do hữu hiệu có thể thể
hiện cuộc sống với những khả năng riêng của mỗi người. Cần phải tránh xa ảo tưởng
nghĩ rằng sự tự do đạt được và lớn lên nhờ việc sở hữu tiền bạc. Phục vụ người
nghèo cách hữu hiệu khơi gợi hành động và cho phép tìm ra những hình thức thích
hợp nhất để nâng cao và thăng tiến bộ phận này của nhân loại vốn quá thường vô
danh và không có tiếng nói, nhưng đã in sâu nơi nó khuôn mặt của Đấng Cứu Độ mà
đòi hỏi sự trợ giúp.
8. “Người nghèo,
các ông sẽ luôn có bên mình” (Mc 14,7). Đó là một lời mời gọi đừng bao giờ đánh
mất cơ hội làm điều thiện. Đằng sau đó, chúng ta có thể thấy lệnh truyền xưa
trong Thánh Kinh: “Nếu giữa anh em có một
người anh em nghèo […], thì anh em đừng có lòng chai dạ đá, cũng đừng bo bo giữ
của không giúp người anh em nghèo túng, nhưng phải mở rộng tay và cho họ vay mượn
tất cả những gì họ thiếu. […] Anh em phải cho họ cách rộng rãi, và khi cho thì
đừng miễn cưỡng. Thật vậy, vì việc đó, Đức Chúa Thiên Chúa của anh em sẽ chúc
phúc cho anh em trong mọi việc anh em làm và mọi công trình tay anh em thực hiện.
Vì trong đất của anh em sẽ không thiếu người nghèo, nên tôi truyền cho anh em:
hãy mở rộng tay giúp người anh em khốn khổ, nghèo khó của anh em, trong miền đất
của anh em” (Đnl 15,7-8.10-11, bản dịch CGKPV). Trên cùng bước sóng
đó, thánh Phaolô Tông đồ đã khuyến khích các Kitô hữu của các cộng đoàn của
ngài giúp đỡ người nghèo của cộng đoàn Giêrusalem đầu tiên và làm điều đó mà “không hối tiếc và không miễn cưỡng, vì Thiên
Chúa yêu thích người nào cho đi cách vui tươi” (2Cr 9,7). Vấn đề không phải là xoa dịu lương tâm của
chúng ta bằng cách làm một vài bố thí, nhưng đúng hơn là đối lập với nền văn
hóa dửng dưng và bất công mà người ta đặt mình đối với người nghèo.
Trong khung cảnh này, cũng nên nhớ lại những lời của thánh
Gioan Kim Khẩu: “Người quảng đại không cần
yêu cầu giải thích về hạnh kiểm, nhưng chỉ cải thiện tình trạng nghèo đói và thỏa
mãn nhu cầu. Người nghèo chỉ có một sự phòng vệ duy nhất: sự nghèo đói và tình
trạng túng thiếu của họ. Đừng đòi hỏi họ điều gì khác. Nhưng người tồi tệ nhất
thế giới, nếu anh ta thiếu thức ăn cần thiết, cần được giải thoát khỏi sự đói
khát. […] Người có lòng thương xót là một bến cảng cho những người túng thiếu:
bến cảng đón tiếp và giải thoát những người bị đắm khỏi mối hiểm nguy ;
cho dù họ là kẻ gian ác, người tốt lành hay đang gặp hiểm nguy, thì bến cảng sẽ
che chở họ bên trong vịnh của nó. Vì thế, bạn cũng vậy, khi bạn thấy một người
trên trần gian đắm chìm trong khốn khổ, đừng phán xét, đừng yêu cầu giải thích
về hạnh kiểm của người ấy, nhưng hãy giải thoát người ấy khỏi nỗi bất hạnh” (Diễn
từ về người nghèo Ladarô, II, 5).
9. Điều quyết định
là gia tăng sự nhạy cảm của chúng ta để
hiểu những nhu cầu của người nghèo, luôn đang biến động như những điều kiện sống
của họ vậy. Quả thế, ngày nay, ở các khu vực kinh tế phát triển hơn trên thế giới,
người ta ít sẵn sàng đối mặt với sự nghèo đói hơn trong quá khứ. Tình trạng
sung túc tương đối mà người ta đã quen với, càng làm cho khó khăn hơn việc chấp
nhận những hy sinh và thiếu thốn. Vì thế, người ta rơi vào các hình thức thù
oán, dễ bị kích động, những đòi hỏi dẫn đến sợ hãi, cô đơn tuyệt vọng và, trong
một số trường hợp, dẫn đến bạo lực. Đó không phải là tiêu chí xây dựng tương
lai ; thế nhưng, đó cũng là những hình thức nghèo khổ mà chúng ta không thể
quay lưng lại. Chúng ta phải cởi mở để đọc các dấu chỉ thời đại vốn diễn tả những
cách thức mới mẻ để trở thành người loan báo Tin Mừng trong thế giới hiện đại.
Sự trợ giúp tức thời để đáp ứng những nhu cầu của người nghèo không được ngăn cản
trở nên sáng suốt để thể hiện những dấu chỉ mới của tình yêu và của đức ái Kitô
giáo, như là câu trả lời cho những sự nghèo khổ mới mà nhân loại ngày nay đang
trải qua.
Tôi hy vọng rằng Ngày thế giới người nghèo, được cử hành lần
thứ V, sẽ có thể càng ngày càng bén rễ vào tâm hồn các Giáo hội địa phương của chúng ta và khơi dậy một chuyển động
loan báo Tin Mừng, trước tiên gặp gỡ người nghèo ở nơi đâu họ được tìm thấy.
Chúng ta không thể mong chờ họ gõ cửa chúng ta, điều cấp bách là chúng ta phải
đến với họ nơi nhà của họ, nơi các bệnh viện và các nhà chăm sóc, trên các đường
phố và nơi những góc tối tăm mà họ đôi khi ẩn náy, nơi các trung tâm tỵ nạn và
đón tiếp… Điều quan trọng là hiểu những gì họ cảm thấy, những gì họ đang trải
qua và đâu là những ước ao trong tâm hồn của họ. Hãy biến thành của chúng ta những
lời cấp bách của Don Primo Mazzolari: “Tôi
xin các bạn đừng hỏi tôi có người nghèo không, họ là ai và bao nhiêu người, bởi
vì tôi sợ rằng những câu hỏi như thế biểu lộ sự sơ suất hay cái cớ để xa
rời với chỉ dẫn rõ ràng của lương tâm và trái tim. […] Tôi đã không bao giờ đếm
họ, những người nghèo, vì chúng ta không thể đếm họ: phải ôm lấy người nghèo,
chứ không đếm họ” (Adesso n. 7, 15/4/1949). Người nghèo ở giữa chúng
ta. Thật là Tin Mừng dường nào nếu chúng ta có thể nói trong tất cả sự thật:
chúng ta nghèo khổ, chúng ta cũng thế, và chỉ bằng cách này mà chúng ta mới
thành công trong việc nhìn nhận họ thực sự và làm cho họ trở thành một phần
không thể thiếu trong cuộc sống của chúng ta và trở thành dụng cụ cứu độ.
Ban hành tại Rôma, Đền
thờ Thánh Gioan Latêranô, ngày 13/6/2021, lễ nhớ thánh Antôn Pađua.
PHANXICÔ
Chuyển ngữ: Lm. Phêrô Võ Xuân Tiến
PSS
Nguồn: xuanbichvietnam.net (09.11.2021)