WHĐ (27.11.2023) – Hôm 24.11, Bộ
Phục vụ Phát triển Con người Toàn diện tổ chức Hội nghị chuyên đề nhân kỷ niệm
10 năm Tông huấn Niềm vui của Tin Mừng (Evangelii Gaudium) của Đức Thánh Cha Phanxicô. Vào dịp này, Đức Thánh Cha đã gửi
tới các tham dự viên Hội nghị một sứ điệp. Sau đây là nội dung Sứ
điệp của Đức Thánh Cha:
SỨ ĐIỆP ĐỨC THÁNH CHA
NHÂN DỊP KỶ NIỆM
10 NĂM
BAN HÀNH TÔNG HUẤN EVANGELII
GAUDIUM
Anh chị em thân mến,
Tôi xin cảm ơn Bộ Phục vụ Phát triển Con người Toàn diện đã
tổ chức hội nghị chuyên đề này để suy tư về Tông huấn Niềm vui của Tin
Mừng (Evangelii Gaudium -
EG) nhân kỷ niệm 10 ban hành Tông huấn.
Trong dịp đó, tôi
đã ngỏ lời với các Kitô hữu để mời gọi họ bước vào một giai đoạn mới trong việc
loan báo Tin Mừng. Tôi đề nghị tái khám phá niềm vui truyền giáo của các Kitô hữu
tiên khởi, là những người tràn trề niềm vui, can đảm không mệt mỏi và nhiệt
tình trong việc rao giảng Tin Mừng [EG,
263], ngay cả trong những hoàn cảnh không thuận lợi cho sứ điệp Tin Mừng,
cho cuộc đấu tranh vì công lý, hoặc việc bảo vệ phẩm
giá con người [EG, 263]. Họ bị phỉ báng, bách hại, tra tấn,
giết hại... tuy nhiên, thay vì khép mình lại, họ lại là mô hình của
một Giáo hội “đi ra”, mạnh dạn
có sáng kiến, đến với người khác, tìm kiếm những người sa ngã, đứng ở các ngả
đường để đón mời những người bị gạt ra bên lề [EG, 24].
Ngay cả thời đại chúng ta cũng có những khó khăn, ít rõ ràng
hơn nhưng có lẽ ngấm ngầm hơn. Vì không
lộ rõ nên chúng hoạt động giống
như thuốc gây mê hoặc giống như khí carbon monoxide từ những chiếc bếp lò cũ giết
người một cách âm thầm. Mỗi thời kỳ lịch
sử đều ghi dấu những yếu đuối của con người, tính tham lam, tự mãn và ích kỷ,
chưa nói gì đến những dục vọng luôn rình rập chúng ta. Những chuyện này luôn
luôn hiện hữu dưới hình thức này hay hình thức khác [EG,263].
Việc loan báo Tin Mừng trong thế giới ngày nay tiếp tục đòi
hỏi chúng ta một sự phản kháng mang tính ngôn sứ và kháng văn hoá chống lại chủ
nghĩa hưởng thụ ích kỷ của ngoại giáo [EG, 193], giống
như sự phản kháng của các Giáo phụ, sự phản
kháng trước một hệ thống giết chết, loại trừ, và hủy hoại nhân phẩm; sự phản
kháng trước một não trạng cô lập, xa lánh, khép kín đời sống nội tâm vào lợi
ích riêng của mình, khiến
chúng ta xa cách người lân cận, xa cách Thiên Chúa.
Trong Tông huấn Niềm
Vui của Tin Mừng, tôi muốn
cho thấy rõ rằng, được mời gọi
để có những tâm tình giống như Chúa Giêsu Kitô, sứ mạng loan
báo Tin Mừng và đời sống Kitô hữu của chúng ta không thể bỏ mặc người nghèo. Toàn
thể lịch sử cứu độ được đánh dấu bởi sự hiện diện của người nghèo [EG, 197]. Tất cả mọi thứ. Từ thân mẫu của Chúa Giêsu, Đức Mẹ đồng trinh, một
thiếu nữ nghèo ở vùng ngoại ô
của một đế quốc vĩ đại. Chính Chúa
Giêsu, Đấng đã trở nên nghèo khó, Đấng sinh ra trong chuồng gia
súc giữa bầy súc vật và nông dân, Đấng
lớn lên giữa những người công nhân và tự tay kiếm sống, Đấng vây quanh mình với vô số những người bị tước đoạt, và đồng
hoá mình với họ, đặt họ vào
trung tâm trái tim của mình, Đấng là người đầu tiên loan báo Tin Mừng cho họ,
hứa ban Nước Trời cho họ và sai tất cả
chúng ta, những môn đệ thừa sai, đến để nuôi sống họ, phân phát của cải cho họ một
cách công bằng, bảo vệ chính nghĩa của họ đến độ chỉ rõ cho chúng ta thấy rằng lòng thương xót đối với họ là chìa khoá để vào nước trời (x. Mt 25, 35ff) [EG, 197].
Thông điệp này quá rõ ràng và trực tiếp, quá đơn sơ và hùng
hồn, nên không một lối chú giải nào của Giáo hội có quyền tương đối hoá nó [EG, 194], vì ở
đây ơn cứu độ của chúng ta đang bị đe
dọa. Vì lý do này, Giáo hoàng không
thể không đặt người nghèo vào trung tâm. Đó không phải là chính trị, không phải
là xã hội học, không phải là ý thức hệ, nhưng là đòi hỏi thuần túy và đơn giản của Tin Mừng. Những
tác động thực tế mà nguyên tắc không thể thương lượng này mang lại đối với từng bối cảnh, xã hội, con người
và thể chế – trong các tổ chức và chính phủ quốc tế, trong các công đoàn và các
phong trào quần chúng, trong các doanh nghiệp và tổ chức tài chính, trong các
chính trị gia, thẩm phán và giới truyền thông – có thể và nên khác nhau, nhưng điều không ai có thể
trốn tránh hoặc miễn trừ chính là món nợ tình
yêu mà mọi Kitô hữu - và tôi dám nói, mọi người – mắc nợ người nghèo.
Giáo hội có thể tìm thấy nơi người nghèo ngọn gió thổi bùng
lên ngọn lửa của lòng nhiệt thành đang tàn lụi, giống như chất lỏng đặc mà các
tư tế cổ xưa vào thời Nêhêmia đã nhóm lại ngọn lửa bàn thờ
sau cuộc lưu đày đến nỗi “một
ngọn lửa lớn bùng lên khiến mọi người sững sờ kinh ngạc” (2 Mcb 1, 22). Trong tình yêu tích cực mà chúng ta mắc nợ người nghèo, có một phương thuốc chữa trị mối nguy cơ lớn của thế giới ngày nay, một thế giới hầu như thấm nhiễm chủ
nghĩa tiêu thụ,… cảm giác cô
đơn và lo lắng phát sinh từ một con tim tự mãn nhưng tham lam, sôi nổi chạy
theo những thú vui phù phiếm, và một lương tâm chai lỳ [EG, 2].
Trong Tông huấn Niềm
Vui của Tin Mừng, với việc
không đòi độc quyền trong việc giải thích thực tại xã hội, tôi lập luận rằng để giải quyết triệt để các vấn đề của
người nghèo – đây là điều kiện cần thiết để giải quyết bất kỳ vấn đề nào khác bởi
vì sự bất bình đẳng là căn nguyên của các tệ nạn xã hội – thì chúng ta cần một sự thay đổi sâu sắc về não trạng và cơ cấu. Tôi muốn đề cập ngắn gọn đến hai khía cạnh này bằng việc trích
một số đoạn trong Tông huấn.
Một não trạng mới
Một não trạng biết
nghĩ đến cộng đồng và vị trí ưu tiên của sự sống vượt lên trên việc chiếm hữu của
cải bởi một số ít người [EG,
188].
“Tình
liên đới là một phản ứng tự nhiên của những người nhận ra rằng chức năng xã hội
của tài sản và mục tiêu phổ quát của của cải là những thực tại đi trước quyền
tư hữu. Quyền tư hữu tài sản được biện minh bởi nhu cầu bảo vệ và gia tăng
chúng, để chúng có thể phục vụ công ích tốt hơn; vì lý do này, tình liên đới phải
được sống như là quyết định hoàn trả cho người nghèo những gì thuộc về họ. Các
xác tín và thói quen này về tình liên đới, khi được đem ra thực hành, sẽ mở đường
cho những biến đổi khác về cơ cấu và làm cho chúng trở thành hiện thực. Thay đổi
các cơ cấu mà không tạo ra được những niềm tin và thái độ mới thì chắc chắn chỉ
làm cho các cơ cấu ấy sớm hay muộn sẽ trở thành tham nhũng, áp bức và vô bổ” [EG, 189].
“Đôi
khi đây là vấn đề lắng nghe tiếng kêu của cả dân tộc, những dân tộc nghèo khổ
nhất trên trái đất, vì “hoà bình không chỉ được đặt nền trên sự tôn trọng các
quyền của con người, mà còn được đặt nền trên sự tôn trọng các quyền của các
dân tộc. Buồn thay, ngay cả
các quyền của con người cũng bị lợi dụng để biện minh cho một sự bênh vực các
quyền của các cá nhân hay các quyền của các dân tộc giàu có hơn. Trong khi tôn trọng
chủ quyền và văn hoá của mỗi quốc gia, chúng ta không bao giờ được quên rằng
hành tinh này thuộc về toàn thể nhân loại và được dành cho toàn thể nhân loại;
sự kiện một số dân tộc được sinh ra tại những nơi có ít tài nguyên hơn hay ít
phát triển hơn không biện minh cho sự kiện họ đang sống kém phẩm giá hơn. Cần
phải nói lại rằng “những người may mắn hơn phải từ bỏ một số quyền lợi của mình
để đặt của cải của mình một cách quảng đại hơn vào việc phục vụ người khác”. Để
nói đúng về các quyền của mình, chúng ta cần mở rộng tầm nhìn và nghe tiếng kêu
của các dân tộc và các vùng khác ngoài đất nước của chính chúng ta. Chúng ta cần
lớn lên trong tình liên đới để nó “giúp mọi dân tộc trở thành những người tạo
nên vận mệnh của chính mình”, vì “mọi người được kêu gọi hoàn thành bản thân
mình” [EG, 190].
Cơ cấu mới của tình liên đới
Những cơ cấu mới, được thiết lập dựa trên tư duy mới này, phải loại bỏ tính tự
trị tuyệt đối của các thị trường và nạn đầu cơ tài chánh cũng như bằng cách tấn
công vào các nguyên nhân của cơ cấu bất bình đẳng [EG, 202].
“Phẩm
giá của mỗi con người và sự mưu cầu lợi ích chung là những mối quan tâm phải định
hình mọi chính sách kinh tế. Tuy nhiên có khi chúng chỉ là những thêm thắt từ
bên ngoài để bù đắp cho một lý thuyết chính trị thiếu tầm nhìn hay thiếu kế hoạch
cho một sự phát triển toàn diện. Biết bao nhiêu từ gây khó chịu cho hệ thống
này! Khó chịu khi vấn đề đạo đức được nêu lên, khi tình liên đới toàn cầu được
khơi dậy, khi sự phân phối của cải được nhắc đến, khi có ám chỉ về một vị Thiên
Chúa đòi hỏi sự dấn thân cho công lý. Khi khác, các vấn đề này bị khai thác bởi
một hình thức tu từ làm cho chúng trở nên rẻ mạt. Thỉnh thoảng sự dửng dưng trước
những vấn đề như thế làm cho cuộc đời chúng ta trở nên trống rỗng và các lời
nói của chúng ta mất hết ý nghĩa. Kinh doanh là một ơn gọi, một ơn gọi cao quí,
miễn là những người tham gia kinh doanh thấy mình được thách thức bởi một ý
nghĩa lớn hơn trong cuộc sống; nó sẽ giúp họ thực sự phục vụ công ích bằng cách
cố gắng làm gia tăng của cải cho thế giới này và làm cho mọi người có thể có
nhiều của cải hơn” [EG, 203].
“Chúng
ta không còn có thể tin vào những lực lượng giấu mặt và bàn tay vô hình của thị
trường. Gia tăng sự công bằng đòi hỏi một cái gì lớn hơn là tăng trưởng kinh tế,
trong khi vẫn nhìn nhận sự tăng trưởng này: nó đòi hỏi những quyết định, chương
trình, cơ chế vận hành và các qui trình được thiết kế chuyên biệt để có một sự
phân phối thu nhập tốt hơn, tạo ra các nguồn lực về việc làm và một sự thăng tiến
toàn diện người nghèo, một sự thăng tiến vượt lên trên não trạng thuần tuý an
sinh. Tôi hoàn toàn không chủ trương một thứ chủ nghĩa dân tuý vô trách nhiệm,
nhưng nền kinh tế không còn có thể cậy dựa vào những liều thuốc mà thực ra là
những bài thuốc độc mới, như tìm cách tăng lợi nhuận bằng việc giảm lực lượng
lao động khiến thành phần những người bị loại trừ tăng lên” [EG, 204].
Nếu chúng ta không đạt được sự thay đổi về não trạng và cơ cấu này, chúng ta sẽ phải chứng kiến các cuộc khủng hoảng về khí hậu, sức khỏe, và di cư ngày càng
sâu sắc, đặc biệt là bạo lực và chiến tranh gây nguy hiểm cho toàn
thể gia đình nhân loại, người nghèo và người không nghèo, người được hội
nhập và người bị loại trừ, bởi
vì “tất cả chúng ta đều ở trên cùng một con thuyền và tất cả chúng ta đều được
mời gọi chèo thuyền cùng nhau”.
Trong Tông huấn Niềm
Vui của Tin Mừng, tôi có ý
trình bày:
“Ngày
nay tại nhiều nơi chúng ta nghe thấy tiếng kêu gọi phải có an ninh hơn. Nhưng
bao lâu tình trạng loại trừ và bất bình đẳng trong xã hội còn chưa được đảo ngược,
thì không thể nào xoá bỏ bạo lực. Người nghèo và các dân tộc nghèo bị tố cáo sử
dụng bạo lực, nhưng nếu không có các cơ hội bình đẳng thì các hình thức gây hấn
và xung đột khác nhau sẽ tìm được mảnh đất mầu mỡ để phát triển và bùng nổ. Khi
một xã hội—địa phương, quốc gia, hay thế giới—muốn gạt ra bên lề một thành phần
của mình, thì không một chương trình hay nguồn lực chính trị nào dành cho việc
thực thi pháp luật hay các hệ thống giám sát có thể bảo đảm vĩnh viễn sự an
bình. Không chỉ đơn giản vì sự bất bình đẳng khơi dậy một phản ứng bạo lực từ
những người bị loại trừ khỏi hệ thống, nhưng là vì hệ thống kinh tế-xã hội là bất
công tận gốc. Cũng như sự tốt lành có xu hướng lan toả, việc dung túng sự ác,
nghĩa là bất công, có khuynh hướng mở rộng ảnh hưởng độc hại của nó và âm thầm
huỷ hoại mọi hệ thống chính trị và xã hội, bất kể hệ thống ấy có vẻ vững chắc đến
đâu. Nếu mọi hành động đều có những hậu quả của chúng, thì một sự ác nằm trong
các cơ cấu của một xã hội cũng có một tiềm năng phá hoại và huỷ diệt lâu dài.
Nó chính là sự xấu được kết tinh trong những cơ cấu xã hội bất công, và không
thể là cơ sở để hi vọng một tương lai tốt đẹp hơn. Chúng ta còn ở xa cái gọi là
“tận cùng của lịch sử”, vì các điều kiện cho một sự phát triển bền vững và hoà
bình vẫn chưa được thấy rõ và thể hiện đầy đủ” [EG, 59].
“Ngày
nay các cơ chế vận hành kinh tế cổ xuý việc tiêu thụ quá mức, nhưng rõ ràng chủ
nghĩa tiêu thụ xả láng kết hợp với tình trạng bất bình đẳng làm cho cơ cấu xã hội
bị huỷ hoại gấp hai lần. Bất bình đẳng sẽ sinh ra bạo lực sử dụng vũ khí và sẽ
không bao giờ có thể giải quyết được. Nó chỉ có thể tạo ra hi vọng giả tạo cho
những người kêu gọi gia tăng an ninh, mặc dù ngày nay chúng ta biết rằng các vũ
khí và bạo lực không hề giúp tìm ra giải pháp, mà chỉ tạo ra những xung đột mới
và nghiêm trọng hơn. Một số người bằng lòng với việc chỉ trích những người
nghèo và các quốc gia nghèo vì là nguồn gốc của các rắc rối; bằng những sự khái
quát hoá vô căn cứ, họ cho rằng giải pháp phải là “giáo dục” để xoa dịu những
người nghèo, thuần hoá họ và làm họ trở thành vô hại. Tất cả quan điểm này càng
làm cho những người bị loại trừ cảm thấy tức giận khi chứng kiến tình trạng
tham nhũng tràn lan và ăn rễ sâu tại nhiều quốc gia—trong các chính phủ, các
doanh nghiệp và các tổ chức—bất kể xu hướng chính trị của các nhà lãnh đạo của
họ là gì” [EG, 60].
Theo cách tương tự, các cuộc khủng hoảng về khí hậu, chăm
sóc sức khỏe và di cư có cùng nguồn gốc từ sự bất bình đẳng trong nền kinh tế, vốn đang giết chết, loại bỏ và hủy hoại đất mẹ chị em, trong não trạng ích kỷ đã duy trì
nó, mà tôi đã đề cập sâu hơn trong
Thông điệp Laudato sí. Bất cứ ai nghĩ rằng họ
có thể tự cứu mình, ở thế giới này hay ở thế giới tiếp theo, đều sai lầm.
Mười năm sau khi
ban hành Tông huấn Niềm
vui của Tin Mừng, chúng
ta hãy tái khẳng định rằng chỉ khi
chúng ta lắng nghe tiếng kêu thường xuyên bị bóp nghẹt của trái đất và của người nghèo,
chúng ta mới có thể hoàn thành sứ mạng loan báo Tin Mừng của mình, sống cuộc sống
mà Chúa Giêsu đề ra cho chúng ta, và góp phần giải quyết những vấn đề nghiêm trọng của nhân loại.
Xin cảm ơn anh chị em một
lần nữa vì Hội nghị chuyên đề này;
Xin cảm ơn về những gì anh chị em làm. Tôi chúc lành cho anh
chị em và đồng hành với anh chị em trong
lời cầu nguyện. Và xin đừng quên cầu nguyện cho tôi.
Thành Vatican, ngày 24 tháng 11 năm 2023
PHANXICÔ
Nt. Anna Ngọc Diệp,
OP
Dòng Đa Minh Thánh Tâm
Chuyển ngữ từ: press.vatican.va (24.11.2023)