Nữ tu Helen
Alford, OP (Hình:
Robert Duncan/CNS.)
TÂN CHỦ TỊCH HÀN LÂM VIỆN TÒA THÁNH VỀ KHOA HỌC
XÃ HỘI:
NỖ LỰC THÚC ĐẨY CÔNG BẰNG XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI LÀ MỘT
PHẦN CỦA VIỆC TRUYỀN GIÁO
Elise Ann Allen
WHĐ (13.04.2023) - Hôm 01.04 vừa qua, Đức
Thánh Cha Phanxicô đã bổ nhiệm nữ tu Helen Alford, OP người Anh, 59 tuổi, đứng đầu Hàn lâm viện Tòa Thánh về
Khoa học Xã hội và sẽ
chính thức nhận sứ vụ vào ngày 01.05.2023.
Tốt
nghiệp tiến sĩ về Kỹ
thuật Quản lý, Sơ
Alford là chuyên gia quốc tế về Đạo đức Kinh doanh, và là thành viên của hội đồng khoa học của một
số tạp chí khoa học. Hiện
nay, Sơ là giáo sư chính thức của Khoa Khoa học Xã hội và là Phó Hiệu
trưởng trường Đại học Giáo hoàng Angelicum ở Roma.
Từ năm 2020, Sơ Alford là thành viên thường trực của Hàn
lâm viện Toà Thánh về Khoa học Xã hội và đã là Cố vấn của Hội đồng Tòa Thánh về
Công lý và Hòa bình.
Dưới đây là
phần một của cuộc phỏng vấn Sơ Helen
Alford, dành cho trang
mạng Crux.
Crux: Sơ thấy vai trò hiện nay của Hàn lâm viện như thế nào?
Sơ Alford:
Nếu nhìn vào các quy chế của Hàn lâm viện, chúng ta thấy rằng mục đích của Viện là thúc đẩy việc nghiên cứu và phát triển các ngành khoa học xã hội, 'thông
qua một cuộc đối thoại thích hợp'. Tôi
nghĩ rằng hai điều quan trọng này mang lại cho Giáo hội những yếu tố mà Giáo hội
có thể sử dụng trong việc phát triển học thuyết xã hội, và sau đó suy tư về việc
áp dụng học thuyết vào xã hội đương đại.
Chúng tôi có 2 phương diện đó là hướng nội, và hướng ngoại. Nhìn vào
giáo hội, chúng tôi phải làm gì để giúp giáo huấn xã hội hoàn thiện hơn, sinh động
hơn. Nói chung, theo hướng
này, chúng tôi lắng nghe Đức Thánh Cha Phanxicô và cố gắng bổ sung thêm vào một
số ý tưởng tuyệt vời mà ngài đề ra. Đồng thời, nhìn ra bên ngoài,
chúng tôi cố gắng xem làm sao để có
thể tương tác tốt hơn với các ngành khoa học xã hội, nhờ đó, hai bên có thể tiếp thu những điều hữu ích lẫn nhau.
Sau cùng, làm sao để đưa giáo huấn xã hội vào thực tế nhiều hơn.
Không chỉ ở cấp độ cá nhân, mà còn trên bình diện lý thuyết.
Đây là một nhiệm vụ lớn. Sơ có ý tưởng hoặc sáng kiến
cụ thể nào muốn đưa vào hành động không?
Điều đầu tiên tôi cần làm là lắng nghe. Trước hết, lắng nghe Đức Thánh Cha Phanxicô. Tôi chưa có cơ hội gặp ngài, nhưng bao nhiêu có thể, lắng nghe những gì ngài cho là quan trọng, bởi vì điều đó cũng thực sự quan trọng đối với chúng tôi. Đồng thời, lắng nghe các học giả
khác, và cả lắng nghe bất kỳ ai muốn
nói điều gì đó với tôi.
Ngoài ra, cũng cần có sự phân định thực sự… chúng tôi phải tìm ra đâu là những
điểm cốt lõi, đâu là những biện
pháp can thiệp mấu chốt, và làm thế
nào chúng tôi có thể là chất xúc tác để mang lại những tiến trình thay đổi mà sau đó sẽ có động lực riêng,
có thể ở trong xã hội rộng lớn hơn hoặc trong phạm vi Giáo hội, bằng việc sử dụng
hai khía cạnh này.
(Hình: Vatican Media)
Đức Phanxicô có một chương trình nghị sự xã hội rất rõ ràng. Ngài là vị giáo
hoàng đầu tiên đến từ Châu Mỹ Latinh, và ngài có những ưu tiên lớn về mặt xã hội.
Sơ có nghĩ rằng điều đó làm thay đổi bản chất của Viện Hàn lâm và
những gì Viện thực hiện
không?
Hàn lâm viện Tòa Thánh về Khoa học Xã hội còn khá trẻ so với
Hàn lâm viện Khoa học, vốn đã
hàng trăm năm tuổi. Hàn lâm viện Tòa Thánh về Khoa học Xã hội chỉ mới được
thành lập vào năm 1994, vì vậy theo một cách nào đó, tôi nghĩ rằng Viện vẫn
đang tự định hình liên quan đến những vấn đề lớn mà chúng ta
phải giải quyết.
Tôi muốn nói rằng tất cả các Đức giáo hoàng, Đức Gioan Phaolô
II, người đã thành lập Viện, Đức Bênêđictô XVI
và Đức Phanxicô, đều đã có những đóng góp thực sự quan trọng. Đức Phanxicô đã có đóng góp của riêng ngài, nhưng tôi
nghĩ Đức Gioan Phaolô II thực sự đã mang giáo huấn xã hội đến với giáo hội rộng
lớn hơn, và ở một mức độ nào đó… ngài là một học giả thực thụ, nên mọi người thường không thực sự hiểu. Mọi người
cần được giúp đỡ để hiểu.
Đức Bênêđictô có một
số ý tưởng thực sự hấp dẫn, chẳng hạn như đưa tính vô vị lợi (gratuitousness) vào trong kinh tế. Ngài thách thức nền kinh tế suy nghĩ về những ý tưởng mới. Sau đó, Đức
Phanxicô đã mạnh mẽ đưa miền Nam toàn cầu vào cuộc thảo luận và tập trung vào
các nhóm bị thiệt thòi nhất, các nhóm bị loại trừ nhất. Đó là những nhóm mà, theo bước Đức Kitô, Chúa chúng ta, bạn cần đặt năng lực của mình vào hơn cả.
Cả 3 vị
giáo hoàng đã có những đóng góp thực sự to lớn trong việc xác định
căn tính này, điều mà tôi
nghĩ vẫn đang trong tiến trình, đang trên đường, đang được xác định, và Đức
Phanxicô đã có một đóng góp hết sức quan
trọng trong tiến trình này.
Tôi rất vui vì Sơ đề cập đến những đóng góp của Đức Gioan
Phaolô II và của Đức Bênêđictô, vì không phải lúc nào các ngài cũng gắn kết với công bằng xã
hội. Liệu Sơ sẽ
mô tả sự phát triển của học thuyết xã hội của Giáo hội trong những thập kỷ gần đây, bao gồm cả ba
triều đại giáo hoàng vừa qua như thế nào?
Một trong những điều thú vị là bạn thường nghe cụm từ này, 'Giáo huấn xã hội Công
giáo là bí mật được giữ kín nhất của Giáo hội'. Tôi đã cố gắng tìm hiểu cụm từ này bắt nguồn từ đâu. Tôi có thể sai, nhưng
theo như tôi được biết, thì vào năm 1976, cụm từ này đã
được sử dụng trong một tài liệu của Trung
tâm về vấn đề quan tâm (the Center of Concern) của Dòng Tên ở Hoa Kỳ.
Điều này thực sự thú vị vì Vatican II là một thời điểm khá quan tâm tới giáo huấn xã hội của Giáo
hội. Công đồng Vatican II có tài liệu
tuyệt vời này là Hiến chế Gaudium
et Spes, nhưng cũng có Tuyên ngôn Dignitatis Humanae và Tuyên ngôn Nostra
Aetate… là những tài liệu liên
quan đến tự do tôn giáo và tầm quan trọng của các tôn giáo khác, và những điều cũng rất quan trọng đối với giáo huấn xã hội. Nhưng, thuật ngữ giáo huấn xã hội hiện nay bị rơi vào khủng hoảng vào thời Công đồng
Vatican II… thuật ngữ này bị
coi là một loại thuật ngữ trưởng giả
và không thực sự liên quan đến các nhóm thực sự cần nó. Vì vậy, thuật ngữ này bị loại bỏ rất nhanh sau đó và
10 sau, chúng ta có cụm từ này, 'đó
là bí mật được giữ kín nhất của Giáo hội Công giáo'.
Một trong những điều cốt yếu mà Đức Gioan Phaolô II đã làm là đưa giáo huấn xã hội Công giáo
trở lại chương trình nghị sự để mang lại cho nó một căn tính.
Ngài coi giáo huấn xã hội là một phần
của thần học luân lý. Khoa Khoa học
Xã hội mà tôi đang phụ trách tại
Angelicum, được thành lập khi Đức Piô XII đến Angelicum, và ngài cũng làm điều tương tự tại Gregorian. Đức Piô XII đến hai trường đại học
này và ngài nói rằng, xin hãy bắt đầu
dạy các chủng sinh về những vấn đề xã
hội hiện đại. Vì vậy, ở cả 2 trường,
các khóa học này khởi sự được
bắt đầu trong khoa triết học… Và sau này, Đức Gioan Phaolô II đề nghị đó là một phần của môn thần
học luân lý.
Theo tôi, Đức
Gioan Phaolô II làm như vậy nhằm nói lên rằng, đó là một phần quan trọng
trong giáo huấn của Giáo hội. Không chỉ là điều hữu ích để biết
về những vấn đề xã hội trên cơ sở chúng ta có thể dạy đức tin, nhưng nó thực sự là một phần của đức tin, là một
phần của lời rao giảng mà
Giáo hội cần thực hiện.
Tôi nghĩ rằng chúng
ta vẫn chưa thực sự nắm bắt được điều này. Ví dụ, nếu bạn nghĩ về vị trí của giáo huấn xã hội Công giáo
trong các chương trình giáo lý, thì đúng là nó thường không có nhiều chỗ đứng,
ngay cả trong các chủng viện, nó cũng không lớn lắm. Giáo huấn xã hội thường không được nhìn thấy nhưng tôi nghĩ đó là một phần quan trọng của việc
Phúc âm hoá. Đó cũng là về việc sống một đời người tốt đẹp, đối thoại với những người không tin, và giúp xây dựng một thế giới
tốt đẹp hơn, nhưng đó cũng là về việc
loan báo Tin Mừng, cho thấy những gì Tin Mừng đang thực hiện trong xã hội.
Chúng ta nghĩ về những gì nghiệp đoàn Liên đới ở Ba Lan đã làm, cách thức mà tổ chức này thành công trong việc hạ bệ một hệ thống quá bất
công. Tất nhiên, là có sự góp phần của
những yếu tố khác nữa,
nó không phải là yếu tố duy
nhất, nhưng là một yếu tố cốt lõi.
Đó là sự liên đới ở cấp độ
toàn cầu giữa tất cả các bên đang cố gắng cải thiện tình hình. Vì vậy, khi bạn
nhìn thấy một điều gì đó giống như thế,
nó sẽ thay đổi thế giới. Đó là ân sủng trong hành động, là đời sống của Giáo hội trong hành động.
Sau đó, Đức Bênêđictô đã
có những ý tưởng hấp dẫn này. Ngài là
người có ý tưởng cuốn hút nhất, và
có lẽ cũng là người trừu tượng nhất, và thực, đôi khi những người có lập trường trừu tượng lại có những ý
tưởng tuyệt vời. Chính Đức Bênêđictô có ý tưởng về sự vô vị lợi cần phải đi vào nền kinh tế như thế
nào. Nhà kinh tế học bình thường thực sự lúng túng chẳng hiểu đó là gì cả. Tôi nghĩ, 15-20 năm sau, với
doanh nghiệp xã hội, với một số cách thức mọi
thứ đang diễn ra xét về mục tiêu phát
triển bền vững, chúng ta có thể thấy nhiều điều hơn nữa.
Tiếp đến,
Đức Phanxicô là người rất quan trọng trong việc làm cho giáo huấn xã hội trở thành một phần cốt lõi trong di sản
của Giáo hội. Tôi nhớ khi ngài được bầu chọn làm giáo hoàng, một người ngoài Công giáo mà tôi biết, đã nói là Đức Phanxicô đã cách mạng
hóa Giáo hội Công giáo! Nhưng tôi thì nói rằng, tôi không nghĩ là Đức
Phanxicô đã cách mạng hóa Giáo hội
Công giáo, mà là bạn đang
nhìn thấy khuôn mặt của Giáo hội Công
giáo mà bạn chưa từng thấy trước đây.
Điều này hết sức quan
trọng, ngoài thực tế là Đức Phanxicô đã
làm cho hoàn cảnh của những khu vực nghèo hơn trên thế giới trở nên hiện thực hơn, cấp bách hơn rất nhiều. Và cách nói của ngài rất kết nối với mọi người… Theo một
cách nào đó, với nhãn quan của
tôi về những gì tôi đang làm việc với, tôi nghĩ Đức Phanxicô là
người tuyệt vời. Tiếp bước Đức
Gioan Phaolô II và Đức Bênêđictô, Đức Phanxicô có thể thêm vào một số điều mà 2 vị tiền nhiệm chưa thể thêm nhưng theo một
cách thức rất phù hợp với những gì
các vị đã thực hiện.
Nt. Anna Ngọc Diệp,
OP
Dòng Đa Minh Thánh Tâm
Lược dịch từ: cruxnow.com (11.04.2023)