Người đầu tiên được tôn vinh trong ngôi đền tinh hoa văn hóa Việt Nam thời hiện đại: Petrus Trương Vĩnh Ký

08/02/2021


NGƯỜI ĐẦU TIÊN ĐƯỢC TÔN VINH TRONG NGÔI ĐỀN TINH HOA VĂN HÓA VIỆT NAM THỜI HIỆN ĐẠI: PETRUS TRƯƠNG VĨNH KÝ

Tác giả: Khổng Thành Ngọc

WHĐ (8.2.2021) - Lễ trao giải hàng năm của Quỹ Văn hóa Phan Châu Trinh không chỉ là một buổi diễn ra nghi thức trao các giải thưởng, mà còn là một diễn đàn về các vấn đề văn hóa và giáo dục, dành cho những người quan tâm đến văn hóa dân tộc và trăn trở với văn hóa đương đại mà mình là người cũng đang dự phần.

Điểm nổi bật nhất của Giải Văn hóa Phan Châu Trinh năm 2015 là việc công bố ba nhân vật đầu tiên của “Ngôi đền Tinh hoa Văn hóa Việt Nam thời hiện đại”. Đó là các danh nhân:

- Petrus Trương Vĩnh Ký (1837-1898),

- Phan Bội Châu (1867-1940),

- Phan Châu Trinh (1872-1926).

Đôi nét về Quỹ Phan Châu trinh - Giải Văn hóa Phan Châu Trinh và Ngôi đền Tinh hoa Văn hóa Việt Nam thời hiện đại

Sáng kiến thành lập Giải Văn hóa Phan Châu Trinh là của những vị trong Hội đồng Quản lý Quỹ Phan Châu Trinh.

Quỹ Văn hóa Phan Châu Trinh được UBND TP Hà Nội cấp phép thành lập vào tháng 10 năm 2006, với tên gọi ban đầu là Quỹ dịch thuật Phan Chu Trinh.

Đây là một Quỹ xã hội, trực thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, mà tự tạo vốn để triển khai dự án “Tủ sách Tinh hoa Tri thức Thế giới”.

Năm 2007, Quỹ dịch thuật Phan Chu Trinh phối hợp với Khoa Quốc tế - Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức giải thưởng “Tinh hoa Giáo dục Quốc tế” nhằm biểu dương, khuyến khích và quảng bá các dịch phẩm xuất sắc trong lĩnh vực giáo dục, có tác dụng thiết thực đối với sự nghiệp phát triển giáo dục Việt Nam.

Năm 2008, Quỹ dịch thuật Phan Châu Trinh được UBND TP Hà Nội đồng ý cho đổi tên thành Quỹ Văn Hóa Phan Châu Trinh. Trong năm này, bên cạnh giải thưởng “Tinh hoa giáo dục quốc tế”, Quỹ còn trao thêm hai giải thưởng “Việt Nam học” và “Nghiên cứu”. Năm 2009, mở  thêm giải thưởng “Dịch thuật”, và năm 2010, đổi giải thưởng “Tinh hoa giáo dục quốc tế” thành “Vì Sự nghiệp Văn hóa - Giáo dục”.

Đặc biệt, năm 2014, Hội đồng Quản lý Quỹ quyết định từ năm 2015 trở đi, sẽ tổ chức tôn vinh các danh nhân Việt Nam, bằng cách công bố đưa các vị vào “Ngôi đền Tinh hoa Văn hóa Việt Nam thời hiện đại”. Việc tôn vinh nhằm hai mục đích: (1) tri ân các danh nhân văn hóa tiêu biểu của Việt Nam thời hiện đại; (2) góp phần lưu giữ và lan tỏa những giá trị tinh hoa văn hóa của các danh nhân này qua những tư liệu/tài liệu các vị để lại, cũng như qua tư liệu/tài liệu /nghiên cứu về các vị.

Sáng kiến tôn vinh danh nhân qua danh xưng “Ngôi Đền” lấy cảm hứng từ Điện Panthéon, nơi lưu giữ thi hài các bậc vĩ nhân của nước Pháp (mặt tiền của Điện có hàng chữ “Tổ quốc ghi ơn các Vĩ nhân”).

Hiện nay, Hội đồng Quản lý Quỹ đề ra sứ mệnh của mình là: “Góp phần phục hưng, du nhập, khởi phát, gìn giữ và lan tỏa những giá trị tinh hoa văn hóa nhằm phục vụ công cuộc canh tân văn hóa Việt Nam trong thế kỷ 21”.

Petrus Trương Vĩnh Ký, danh nhân đầu tiên trong Ngôi Đền Tinh Hoa Văn Hóa Việt Nam Thời Hiện Đại

Xin trích Diễn văn bế mạc của nhà văn Nguyên Ngọc tại Lễ trao Giải Văn hóa Phan Châu Trinh lần VIII, phần giới thiệu “Ngôi đền Tinh hoa Văn hóa Việt Nam thời hiện đại”, đặc biệt đoạn nói về danh nhân Petrus Trương Vĩnh Ký:

“Như Chủ tịch Nguyễn Thị Bình đã tuyên bố trong lời khai mạc, bắt đầu từ năm nay Quỹ Văn hóa của chúng ta có thêm một hoạt động thường niên quan trọng: Tôn vinh những Danh nhân văn hóa Việt Nam thời hiện đại. Chúng tôi xác định “Thời hiện đại” ở đây, trong chương trình này, là bắt đầu từ khi có chữ quốc ngữ, và cho đến năm 1945. Với thời kỳ Hán Nôm trước đó, có lẽ các giá trị văn hóa đã được xác định khá rõ, đã khá ổn định. Với thời kỳ sau 1945, Nhà nước Việt Nam bằng nhiều cách đã thường xuyên làm công việc này. Qua chương trình của Quỹ chúng ta, chúng ta muốn đóng góp vào việc dựng lại một cách ngày càng cố gắng đầy đủ, khách quan, công bằng hơn những giá trị văn hóa, nhiều khi rất lớn của thời kỳ vừa nói trên, do những điều kiện lịch sử, xã hội, chính trị nhất định, đã không được minh định thích đáng. Đây là một công việc khó khăn nhưng thật hết sức cần thiết, cần sự chung trí, chung tay của toàn xã hội. Chúng tôi dự định làm lần lượt, không nhất thiết theo đúng thứ tự biên niên. Đối với mỗi nhân vật được tôn vinh sẽ xây dựng hồ sơ đầy đủ, xuất bản hoặc tái bản các công trình của các vị và về các vị, tổ chức những tọa đàm rộng rãi, tìm học bổng cho những nghiên cứu sâu hơn về từng vị, ở cấp tiến sĩ …

Năm nay, để mở đầu, chúng tôi đề nghị rước vào ngôi đền Pathéon của chúng ta ba vị Trương Vĩnh Ký, Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh. Với sự giúp đỡ của các chuyên gia, chúng tôi đã chuẩn bị các ấn phẩm dày dặn về từng người, rất tiếc không in kịp cho hôm nay. Tối nay chỉ xin tạm gửi đến quý vị một bài viết khá đầy đủ của Nguyễn Văn Tố về Trương Vĩnh Ký, và hai bài ngắn gọn về Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu.     

Xin nói đôi lời về Trương Vĩnh Ký. 

Ông sinh năm 1837 và mất năm 1898, hai năm trước khi kết thúc thế kỷ 19.

Trước hết, đấy là một nhà bác học, nhà bác học lớn đầu tiên của Việt Nam ở thời hiện đại. Jean Bouchot bấy giờ gọi ông là “nhà bác học duy nhất ở Đông Dương và cho đến cả Trung Hoa hiện đại nữa”. Theo Bouchot, “người dân hoàn toàn Nam Kỳ ấy sánh kịp với các nhà thông thái xứng đáng nhất của châu Âu trong đủ ngành khoa học”. Một đánh giá không hề quá. Trương Vĩnh Ký là một thiên tài về ngôn ngữ học. Một vị giáo sĩ một lần đến thăm ông thấy ông nói thành thạo và một cách sang trọng tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Ý, tiếng Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hy Lạp… và nhiều ngôn ngữ phương Đông: Ấn Độ, Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan, Mã Lai… Và buổi chiều khi từ giã ông thì lại thấy một nhà truyền giáo đến thảo luận với ông về thần học bằng tiếng La Tinh… Ông học ngoại ngữ ở Chủng viện Pénang, và tự học. Ông còn am hiểu sâu, hết sức cập nhật và với một đầu óc độc lập, cực kỳ nhạy cảm và sáng tạo những vấn đề lý thuyết ngôn ngữ học mới nhất đương thời. Ông thành thạo hàng chục ngôn ngữ và hiểu sâu sắc các nền văn hóa và văn minh đằng sau các ngôn ngữ ấy.

Năm 1886, coi là đã xong công cuộc bình định, Pháp đưa Paul Bert, một nhà bác học, viện sĩ Viện Hàn lâm sang làm toàn quyền Đông Dương. Đã biết và khâm phục Trương Vĩnh Ký từ khi gặp ông ở Pháp cùng phái đoàn Phan Thanh Giản, Paul Bert mời ông ra Huế, sung vào nội các Nam triều, với mục đích giúp người Pháp hiểu Việt Nam, và người Việt Nam hiểu Pháp, cũng là tâm nguyện của Trương Vĩnh Ký. Nhưng chỉ 7 tháng sau Paul Bert chết đột ngột vì bệnh tả. Lạc lõng giữa một đám thực dân khinh khỉnh và cao ngạo, một đám quan lại Nam triều hèn mọn, hiềm khích, Trương Vĩnh Ký bỏ về. Và từ đấy cho đến khi qua đời, ông đã cống hiến toàn bộ tài năng và công sức của mình, mà Nguyễn Văn Tố gọi là một “lao động mênh mông”, cho công cuộc văn hóa, tập trung nhiều nhất cho việc nghiên cứu, phân tích với một trình độ chuyên môn uyên bác về ngôn ngữ học và các khoa học tinh tế liên quan đến văn học và nghệ thuật, và chuyển ngữ các tác phẩm ưu tú nhất trong gia tài văn học dân tộc mà ông thiết tha yêu quý. Ông là người đầu tiên chuyển dịch Truyện Kiều ra quốc ngữ. Ông để lại hơn trăm tác phẩm, nghiên cứu và sáng tác, về văn học Việt Nam, về ngôn ngữ học, về lịch sử, về sư phạm…, cả những tác phẩm mô tả sinh động hiện thực xã hội Việt Nam đương thời, một gia tài mênh mông mà chắc chắn chúng ta có nhiệm vụ phải tận khai, cho cả hôm nay.

Trương Vĩnh Ký đã sống trong một thời kỳ xáo động và đã trải qua một cuộc đời đẹp đẽ mà cũng lại có nét éo le, bi tráng. Ngay khi phải sống và làm việc cho Pháp, ông vẫn nhắc câu châm ngôn "Sic vos non vobis" - Ở với họ mà không theo họ. Sưu tầm, chú thích bản Gia Định thất thủ vịnh, ông gọi rõ ràng Tây là "giặc". Ông phản đối quyết liệt chủ trương có màu sắc đồng hóa của chính quyền thực dân muốn đưa tất cả những người Việt là thuộc dân (sujet français – tức dân thuộc địa Nam Kỳ và ba thành phố nhượng địa Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng) vào quốc tịch Pháp, tự mình suốt đời nhất quyết chỉ giữ quốc tịch Việt Nam. Học giả Vương Hồng Sển viết: Trương Vĩnh Ký ở “gần bùn mà chẳng nhuốm mùi bùn, không ham "đục nước béo cò" như ai, chỉ say đạo lý và học hỏi, sống đất Tào mà lòng giữ Hán, thác không tiếng nhơ …”.

Nhà bác học Trương Vĩnh Ký xứng đáng là một trong những danh nhân đầu tiên làm vinh dự cho ngôi đền văn hóa của chúng ta”.[1]


Tôn vinh Petrus Trương Vĩnh Ký: Những phẩm chất danh nhân văn hóa

Sự kiện Quỹ Văn hóa Phan Châu Trinh chọn Petrus Trương Vĩnh Ký vào danh sách đợt đầu tiên, gồm ba danh nhân, đưa vào Ngôi đền Tinh hoa Văn hóa Việt Nam thời hiện đại, bởi cả ba vị tiên khởi này (và các vị của những đợt tôn vinh tiếp theo) đều là những tinh hoa văn hóa, được thể hiện qua những tư liệu/tài liệu các vị để lại, cũng như qua tư liệu/tài liệu /nghiên cứu về các vị.

Đặc biệt, việc nhìn nhận tinh hoa văn hóa, tức những đóng góp đặc sắc của Petrus Trương Vĩnh Ký đối với văn hóa dân tộc, là cả một quá trình phức tạp, diễn ra với hai cách đánh giá trái ngược nhau – người khen ngợi, kẻ phản đối. Vì thế, việc tôn vinh Petrus Trương Vĩnh Ký đưa vào Ngôi đền Tinh hoa Văn hóa Việt Nam thời hiện đại, chắc chắn sẽ còn gặp phải những ý kiến phản đối, tuy không nhiều nhưng cho thấy vẫn tồn tại sự phân hóa trong giới nghiên cứu (và cả những người sử dụng nghiên cứu cho những mục đích khác, ngoài phạm vi nghiên cứu khoa học và văn hóa, chẳng hạn mục đích chính trị, hoặc cố biện luận cho những sai lầm - trong nghiên cứu - vì nhiều lý do khác nhau…).

Tuy nhiên, dù có thể sẽ gặp phản đối, việc tôn vinh Petrus Trương Vĩnh Ký là dịp để làm rõ những phẩm chất của một danh nhân văn hóa.

Qua tư liệu / tài liệu Petrus Trương Vĩnh Ký để lại, cùng với kết quả nghiên cứu trong hơn thế kỷ về ông, nhất là việc tìm hiểu những dự báo và đóng góp của ông vào tiến trình văn hóa dân tộc và sự định hình nền văn hóa đương đại, có thể thấy rõ những phẩm chất của một vị danh nhân văn hóa. Những phẩm chất đó là: phát hiện, giữ gìn văn hóa dân tộc và xây dựng cầu nối giữa văn hóa dân tộc với các nền văn hóa khác.

Petrus Trương Vĩnh Ký là trường hợp điển hình cho những phẩm chất đó.

Có thể điểm lại một số sự kiện và nhận định, diễn ra trong một thế kỷ qua, cho thấy việc nhìn nhận Petrus Trương Vĩnh Ký là danh nhân văn hóa ngày càng được hậu thế tán thành.

Năm 1898, khi Trương Vĩnh Ký qua đời, các học trò của ông, gồm: Trương Minh Ký, Diệp Văn Cương, Nguyễn Trọng Quản, đã viết bài Văn khóc thầy, được Khoa Ngữ Văn trường Đại học Khoa học Xã hội Nhân văn TP.HCM đăng lại từ Kiến thức ngày nay, số 874, ngày 20-11-2014:

“Thương thay thầy ta là Quan lớn Sĩ Tải Trương Vĩnh Ký

Nhớ thầy xưa:

Nên đấng thông minh; thật trang văn phú.

Sang dường ấy, trọng dường ấy, ngó công danh trong mắt như không; kiêu chẳng hề, lẫn chẳng hề, xem tánh hạnh trong đời ít có.

Việc chữ nghĩa nhọc lòng biên đặt, lắm thuở công phu; dạy học hành ra sức vun trồng, nhiều lời khuyên dỗ.

Ôi!

Tưởng còn lâu hưởng lộc trời; nay đã sớm lìa cõi thụ.

Bướm Trang Sinh một giấc, mình cỡi chốn vĩ cơ; hạt Đình Lịnh trăm năm, hồn nương nơi vân vụ.

Người tuy mất mà danh chẳng mất, tiếng hãy còn đây; Coi sách thầy mà học ý thầy, hình như thầy đó;

Hỡi ôi! Tiếc thay! Hỡi ôi! Thương thay!”.[2]

Bài viết này đưa nhận định:

“Các tác giả bài khóc thầy trên đây đều là những cây bút tiên phong, làm cầu nối giữa văn học trung đại và văn học hiện đại. Họ là những người từng du học ở nước ngoài về, đóng một vai trò quan trọng trong lĩnh vực văn hoá và có điểm chung là tấm lòng tha thiết đối với sự tiến bộ của dân tộc. Trong đó, Trương Vĩnh Ký được xem là người thầy chung của thế hệ nhà văn Quốc ngữ thời kỳ đầu ở Nam Bộ”.[3]

Năm 1937, viết bài “Đôi nét về danh nhân văn hóa Trương Vĩnh Ký”, cụ Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố (1889-1947) đã cho biết lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Petrus Trương Vĩnh Ký sẽ diễn ra vào tháng Chạp 1937. Dịp này có các sự kiện như: (1) Khánh thành một bia tưởng niệm ở Cái Mơn (Bến Tre), nơi sinh của Pétrus Ký; diễn văn về cuộc đời riêng của ông; (2) Đặt một biển tưởng niệm tại nhà Bà Phủ Phái ở Chợ Lớn, nơi đã từng có ngôi nhà của Pétrus Ký; diễn văn về cuộc đời của nhà bác học. (3) Dựng tượng ông ở trường Pétrus Ký tại Chợ Quán; diễn văn về cuộc đời công của ông[4].  

Trong phần kết luận bài viết, Nguyễn Văn Tố nêu rõ những phẩm chất của một danh nhân văn hóa nơi Petrus Ký:

“Điều chúng tôi cố gắng tìm ra trong suốt nghiên cứu này, như ta đã thấy, là hình ảnh và tâm hồn của con người đã cho xuất bản những cuốn sách thật đẹp đẽ đến thế về lịch sử, ngôn ngữ và văn học An Nam. Ta tìm thấy lại ông toàn vẹn, với tình yêu lao động và sự tôn thờ khoa học của ông, với lòng yêu mến ông đã biết biểu lộ với những con người lương thiện ở họ ông gặp được cả sự cao cả bẩm sinh của trái tim lẫn đức tò mò của trí tuệ. Cuộc đời cần mẫn của ông quả là một cuộc đời thật đẹp. Ông đã làm vinh dự cho ngôi làng nơi ông ra đời và cả toàn bộ xứ Đông Dương An Nam mà ông truyền gửi lại lợi ích được tạo nên bằng lao động mênh mông của ông. Bổn phận của tất cả chúng ta là tiếp nhận lấy nó, trong các bản viết tản mát của ông và trong những ký ức của những người đã được nhìn thấy ông ở gần, tất cả những gì có thể cho ta biết về cuộc đời ấy trong toàn bộ sự thật của nó mà ta có thể tóm gọn trong ba từ: khoa học, lương tri và khiêm nhường”.[5]

Gần mười năm trước đó, ngày 11 tháng 8 năm 1928, Toàn quyền Đông Dương René Robin ký nghị định số 3116 thành lập một ngôi trường mới tại Chợ Quán. Trong dịp khai trường niên khóa đầu tiên 1928-1929, trường tân lập này khánh thành tượng đồng của nhà bác học Petrus Trương Vĩnh Ký, đồng thời Thống đốc Nam Kỳ Blanchard de la Brosse đặt tên trường là Lycée Petrus Trương Vĩnh Ký. Tên trường Petrus Ký tồn tại gần 50 năm, đến 1975 đổi thành Trường THPT Lê Hồng Phong.

Năm 1965, nhà nghiên cứu văn học Phạm Thế Ngũ xuất bản quyển Văn học hiện đại 1862-1945, tức tập III của bộ Việt Nam Văn học sử Giản ước tân biên (Nxb Quốc học tùng thư). Trong đó, Pham Thế Ngũ nhận định về Trương Vĩnh Ký:

“Ở ông ta thấy thái độ thích đáng công minh của một bực trí thức trung thực và tự trọng, không thấy cái xu phụ mù quáng của thứ tẩu cẩu ngoại nhân. Con người ấy thực ra ở trí sáng suốt, óc chừng mực, phong tao nhã, vẫn cốt yếu là một đồ đệ Nho giáo. Và trái tim ông vẫn đập về phía đất nước, đồng bào”.

Năm 1997, các giáo sư đại học Hoàng Như Mai, Trần Hữu Tá mở trường THPT Dân lập Trương Vĩnh Ký tại TP.HCM. Việc lấy tên Trương Vĩnh Ký đặt cho trường đã được nguyên Thủ tướng CP Võ Văn Kiệt, trong lần đến dự lễ Khai giảng năm học 2001-2002,  bày tỏ sự cảm kích trước việc nhà trường đã giúp ông trả món nợ tinh thần, vì đã trân trọng lấy tên nhà bác học làm tên trường, để Trương Vĩnh Ký luôn là tấm gương sáng về học tập và lao động khoa học cho thế hệ trẻ noi theo.

Năm 2002, Tạp chí nghiên cứu lịch sử “Xưa & Nay” tổ chức Hội thảo “Trương Vĩnh Ký và Văn hóa”. Tại cuộc Hội thảo này, đại đa số ý kiến đều khẳng định những đóng góp lớn của Trương Vĩnh Ký về ngôn ngữ, đặc biệt về việc truyền bá chữ quốc ngữ, các công trình khảo cứu…

Ngày 6-12-2010, Báo Tuổi Trẻ đưa tin về việc khánh thành bức tượng đồng tạc nhà bác học Trương Vĩnh Ký tại Trường THPT Trương Vĩnh Ký (huyện Chợ Lách, Bến Tre, nơi ông sinh ra). Bản tin còn cho biết:

“Đây là chương trình “Mỗi người một giọt đồng đúc tượng danh nhân” do tạp chí Xưa & Nay - Hội Khoa học lịch sử Việt Nam chủ trương. Bức tượng đồng có kích cỡ 90x60cm, nặng 300kg, được lấy từ mẫu tượng điêu khắc của tác giả vô danh trước năm 1975, tạp chí Xưa & Nay tặng trường nhân kỷ niệm 173 năm ngày sinh của nhà bác học Trương Vĩnh Ký (6-12-1837 - 6-12-2010).

Năm 2000, cuộc tọa đàm “Trương Vĩnh Ký với văn hóa” do tạp chí Xưa & Nay và Sở Văn hóa thông tin TP.HCM tổ chức, với phần lớn tham luận đều ghi nhận những đóng góp to lớn của ông, đặc biệt trong lĩnh vực văn hóa và ngôn ngữ.

Kế thừa kết luận của cuộc tọa đàm này, năm 2009 Tỉnh ủy, HĐND tỉnh Bến Tre đã ra nghị quyết về việc đặt tên Trương Vĩnh Ký cho trường THPT huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre”.

Trong tập sách “Thế kỷ XXI nhìn về Trương Vĩnh Ký” do Nhà Xuất Bản Hồng Đức kết hợp với Tạp chí nghiên cứu lịch sử Xưa & Nay ấn hành năm 2013, lời giới thiệu sách viết:

“Trương Vĩnh Ký đã chọn con đường riêng cho cuộc đời mình trong bối cảnh xã hội hết sức phức tạp và đó lại là một trong những vấn đề gút mắc lớn nhất khi bàn luận về ông. Tuy nhiên, những đóng góp của ông về mặt văn hoá thì không chỉ có giá trị đối với Việt Nam và còn của thế giới”.

Gần đây nhất, trong hai ngày 20 và 27 tháng Ba 2015, chương trình Việt ngữ Đài Phát thanh Quốc tế Pháp quốc (RFI) liên tiếp đăng hai bài của tác giả Thu Hằng: “Trương Vĩnh Ký : Chiếc cầu nối Đông-Tây” (ngày 20-03-2015) và “Trương Vĩnh Ký và những nỗ lực phổ biến chữ quốc ngữ cuối thế kỷ XIX” (ngày 27-03-2015), nhắc lại sự trân trọng của giới học thuật thế giới đối với khả năng và sự đóng góp của Trương Vĩnh Ký cho nền học thuật nhân loại:

“Nhà văn Việt Nam. Sáng lập ra ngành báo chí tại Việt Nam, ông cũng là tác giả của nhiều tác phẩm lịch sử, giảng dạy, ngôn ngữ và dịch thuật các tác phẩm Tầu”. Đây là lời giới thiệu về Jean-Baptiste Petrus Trương Vĩnh Ký (06/12/1837-01/09/1898) của từ điển các danh nhân của Larousse. Ông cũng được giới học thuật châu Âu thế kỷ XIX liệt vào một trong “Thế giới Thập bát văn hào”, đồng thời đứng trong hàng những người biết nhiều ngoại ngữ bậc nhất trên thế giới nhờ thông thạo 10 ngoại ngữ và nắm sơ một số khác”.[6]

Đặc biệt, nêu bật vai trò làm cầu nối Đông-Tây của Trương Vĩnh Ký:

“Hiểu rõ nỗi thống khổ của người dân, Pétrus Ký muốn làm dịu vết thương chiến tranh bằng cách đứng ra làm gạch nối cho sự giao hảo Pháp-Việt”.[7]

Đặc biệt nối kết bằng con đường văn hóa-giáo dục:

“Ông soạn nhiều sách và giáo trình để phục vụ cho công việc giảng dạy. Đối với người Pháp là giáo trình dạy chữ Hán và quốc ngữ, địa lý và lịch sử Việt Nam. Đối với người Việt, phần lớn cũng là sách dạy chữ quốc ngữ và tiếng Pháp. Ngoài ra, nhận thấy người Pháp mở trường tiểu học nhưng “quên” soạn và in sách, ông đã biên soạn nhiều sách giáo khoa, đồng thời luôn có những lời khuyên răn đạo đức cho trò nhỏ mà có thể thấy trong cuốn Sơ học vấn tân quốc ngữ diễn ca (1877)”.[8]

Về tâm huyết truyền bá chữ quốc ngữ, tác giả Thu Hằng cho rằng đây chính là một trong những cách thức Trương Vĩnh Ký sử dụng để lưu truyền những giá trị cổ truyền của dân tộc:

“Từ khi chữ quốc ngữ trở thành văn tự chính thức tại Nam Kỳ vào năm 1882, ông chuyển ngữ ngay nền văn chương truyền khẩu bình dân, gồm những áng văn vần và chuyện dân gian rất được ưa chuộng, như: Phép lịch sự Annam (1881), Thơ dạy làm dâu (1882), Thơ mẹ dạy con (1882), Nữ tắc (1882), Thạnh suy bỉ thới phú (1883), Cờ bạc nha phiến (1884), Ngư tiều trường điệu (1884)… Trong cuốn Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan đã nhận định rất đúng khi viết: “Hồi đó, ông (Trương Vĩnh Ký) cần phải xuất bản như thế, cốt dùng những chuyện phổ thông làm cái lợi khí cho chữ quốc ngữ được lan rộng trong nhân gian...[9]

* * *

Như vậy, có thể nói, nơi Trương Vĩnh Ký hiện rõ những phẩm chất của một vị danh nhân văn hóa: phát hiện, giữ gìn văn hóa dân tộc và xây dựng cầu nối giữa văn hóa dân tộc với các nền văn hóa khác.

Vì lẽ đó, việc tôn vinh Petrus Trương Vĩnh Ký là một trong số những tinh hoa của nền văn hóa, đặc biệt nền văn hóa hiện đại, không chỉ là một khẳng định cần thiết khi “ôn cố”, mà còn là cơ sở cho việc xác lập những tiêu chí của việc “tri tân” nữa.

Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 88 (Tháng 5 & 6 năm 2015)



[2] Nguồn: website Khoa Ngữ Văn, Trường Đại học KHXHNV/TP.HCM: http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/home/index.php

[3] Như trên

[4] Theo Tập san của hội Nghiên cứu Đông Dương, bộ mới, t. X, số 4, đệ tứ tam cá nguyệt 1936, tr. 145

[5] Nguyễn Văn Tố, Đôi nét về danh nhân văn hóa Trương Vĩnh Ký, bản dịch từ tiếng Pháp của Nguyên Ngọc, http://www.quyphanchautrinh.org/ngoi-den-tinh-hoa-van-hoa/ChiTiet/713/danh-nhan-van-hoa-truong-vinh-ky

[6] Trương Vĩnh Ký : Chiếc cầu nối Đông-Tây,  https://hcsvvdhdalat.wordpress.com/2016/04/03/truong-vinh-ky-chiec-cau-noi/  trích lại từ http://vi.rfi.fr

[7] Như trên

[8] Như trên

LỊCH PHỤNG VỤ