THÁNH ISIDÔRÔ GAGELIN KÍNH
Linh mục Thừa sai Hải ngoại Paris, Tử đạo
(1799 – 1833)
Chuộng túp lều tranh hơn lâu đài
Thời ấy, vua Minh Mạng mới lên ngôi, bầu khí tự do tín ngưỡng do vua cha (Gia Long) để lại chưa phai nhạt. Linh mục Gagelin Kính vừa tiếp tục dạy Chủng viện An Ninh, vừa thi hành công tác mục vụ tại các vùng lân cận. Cha gửi tâm sự về quê nhà năm 1823 như sau: “Những thiếu thốn, cực nhọc đủ loại đến với tôi, không tránh gì được. Nhưng tôi dám khẳng định rằng tôi hạnh phúc trong túp lều tranh của mình hơn vua nước Pháp ở trong hoàng cung của ông.”
Dần dần vua Minh Mạng áp dụng chính sách bách hại đạo ngày càng mãnh liệt. Bề trên Chủng viện An Ninh phải cho cha Kính vào Sài Gòn, là khu vực Tả quân Lê Văn Duyệt không áp dụng chính sách bài Công giáo. Cha thường thực hiện sứ vụ tông đồ nơi các họ đạo vùng Gia Định, Bà Rịa và đào tạo chủng sinh tại Chủng viện Lái Thiêu.
Ưa chức đạo trưởng hơn chức quan lại
Năm 1827 cha Kính được Minh Mạng triệu về kinh cùng với các giáo sĩ Tây Phương khác. Vua lấy cớ cần người dịch các tài liệu, giải thích các tranh khắc bản đồ và làm thông ngôn cho triều đình, nhưng với hậu ý cản ngăn việc truyền đạo.
Nhận được triệu lần thứ ba, cha Kính mới lên đường về kinh đô. Tại đây, cha gặp hai thừa sai khác là cha Taberd Từ, cũng thuộc Hội Thừa sai Paris và cha Odorico Phương, dòng Phanxicô, đã trình diện nhà vua trước ngài. Cả 3 được cho ở Cung Quán, hay Dinh các sứ thần, gần cửa Đông Bắc.
Để trấn an và để có thể che giấu tà ý, nhà vua đề nghị ban chức quan cho các cha, nhưng các vị từ chối. Cha Kính bày tỏ lập trường trong thư gửi về Pháp: “Tôi nói dứt khóat với ông quan do vua sai đến ban ân huệ cho chúng tôi. Tôi cho ông biết mục đích chúng tôi sang đây làm gì, và chức Đạo trưởng trọng hơn chức quan lại dường nào. Tôi cũng nói rõ chúng tôi đã rời bỏ gia đình, quê hương và mọi lợi lộc trần gian để chỉ truyền giảng Tin Mừng thì không dễ gì chúng tôi từ khước nhiệm vụ đó. Tuy nhiên, những công việc nào có thể dung hòa với nhiệm vụ của mình thì chúng tôi sẵn sàng giúp đỡ nhà vua.”
Thấy sự khâm phục của quan lại An-nam, các thừa sai bèn làm một thỉnh nguyện thư xin được phép giảng đạo, nhưng chẳng nhận được câu trả lời. Dù thế, các ngài lợi dụng mọi cơ hội để truyền bá đức tin cho người Việt, thậm chí cho các đại diện sắc tộc đến gặp vua tại Cung Quán. Dĩ nhiên việc này phải làm cách chùng lén và với nhiều khó khăn. May thay, Tả quân Lê Văn Duyệt, người đã tống đạt lệnh vua và khuyên ba giáo sĩ Tây Phương về kinh đô, khi nhận biết các ngài thực ra bị giam lỏng, chính ông đã về triều đình vào tháng 08.1827 để thuyết phục vua Minh Mạng chớ cầm giữ họ. Tuy không muốn, nhà vua buộc lòng phải trả tự do cho ba Linh mục.
Ngày 01.06.1828, cha Kính lên đường trở về Đồng Nai, rồi đi thăm viếng các họ đạo tại miền Nam, từ Đồng Nai, Vũng Tầu đến Lục Tỉnh. Ngài vừa lo hướng dẫn chăm sóc dân Chúa, vừa truyền giảng Tin Mừng cho dân Chàm ở Bình Thuận và dân Khmer ở Hà Tiên. Nhưng các sắc dân này tin theo đạo rất ít. Năm 1829, ngài trở về Chủng viện Lái Thiêu, được Đức cha Taberd Từ (kế vị Đức cha Labartette An) bổ nhiệm làm Bề trên Giáo phận (quyền Đại diện) và cử ra hoạt động ở miền Trung.
Mong nộp mình vì tín hữu hơn được tự do
Cha Bề trên Kính bắt đầu làm việc mục vụ tại tỉnh Phú Yên, rồi tới Bình Định, Quảng Ngãi (1830). Cha đi bộ từ họ này sang họ khác, dẫu xa hay gần, lớn hay nhỏ để giảng dạy, dâng lễ, giải tội và ban phép Thêm sức cho giáo hữu. Tất cả những ai quen biết cha và làm chứng trong cuộc điều tra phong Thánh, đều đồng thanh khen ngợi lòng đạo đức, tính khiêm tốn, nét đoan trang, tinh thần khó nghèo khổ hạnh và đức công minh chính trực trong đời sống của ngài.
Ngày 06.01.1833, vua Minh Mạng ra chiếu chỉ cấm đạo gắt gao. Nhiều thân hữu khuyên cha Gagelin nên tạm hồi hương một thời gian, cha thẳng thắn trả lời: “Không biết tôi đang chiến đấu chống ma quỷ à? Làm sao một người lính như tôi lại xin nghỉ hưu được? Tôi lại đang được Chúa thương nâng lên hàng sĩ quan lãnh đạo, chẳng lẽ thoái thác trách nhiệm của mình?” Thế là dù thời buổi khó khăn, cha vẫn tiếp tục hăng say trong sứ mệnh, thăm hỏi an ủi giáo dân, giảng đạo và rửa tội nhiều người Thượng ở Bình Định. Được một vị quan thân hữu mật báo sẽ có cuộc truy bắt các Linh mục Tây phương, cha lẩn tránh ít lâu. Nhưng khi thấy nhiều giáo hữu bị bắt bớ, đau lòng trước cảnh đoàn chiên tan tác, cha liền viết thư xin phép Đức Giám mục cho ra nộp mình, hy vọng nhờ đó giáo hữu khỏi bị bách hại. Đức Cha Taberd Từ chấp thuận. Thế là ngài đến trình diện với quan tri huyện Bồng Sơn vào tháng 05.1833, sau đó cha bị giải về kinh đô Huế.
Ước về cõi phúc hơn ở lại trần gian
Đến Huế ngày 23.08.1833, cha bị giam ở Trấn Phủ, nhà tù gần cửa Đông Ba, và nhiều lần được thừa sai Jaccard Phan cùng hội và Thừa sai Odôricô Phương, dòng Phanxicô, bị giam lỏng ở Cung Quán gần đó, đến thăm hoặc nhờ người trao đổi thư từ.
Suốt bảy tuần lễ chịu tống ngục, cha bề trên Kính chẳng bị thẩm vấn lần nào. Vua Minh Mạng đã quá rõ không thể lay chuyển đức tin can trường của vị Linh mục.
Kể từ ngày 12.10, lính xiềng xích chân tay cha, canh gác nghiêm ngặt hơn, và không cho giao tiếp với ai cả. Linh mục Jaccard Phan, nhờ có liên hệ với triều đình, báo tin cho cha biết ngày hành quyết sắp đến. Cha Kính liền gửi thư phúc đáp, bày tỏ niềm hân hoan khôn tả khi được đổ máu cho Chúa mình. Ngài cũng nhờ cha Phan thông báo cho Đức Giám mục, cho các Bề trên Hội Thừa sai và gia đình. Cha viết tiếp: “Tôi từ giã cõi thế không tiếc nuối sự gì. Việc nhìn lên Chúa Giêsu chịu đóng đinh đã đủ an ủi tôi trước mọi đau khổ và cả cái chết nữa. Tất cả ước vọng của tôi là sớm thoát khỏi thân xác tội lỗi này, kể sống mãi cùng Chúa Giêsu trong nơi vĩnh phúc. Tôi muốn thành tro bụi để kết hợp với Người.”
Vua Minh Mạng giữ bí mật bản án cho đến phút chót. Sáng sớm ngày 17.10.1833, một đội lính đến ngục thất Trấn Phủ áp giải cha Gagelin, còn nói rằng cha được dời sang ngục khác. Hiểu ngay giờ sau hết đã điểm, cha hỏi: “Có phải các ông đưa tôi đi xử tử không?” Họ đành đáp: “Thưa phải.” Thế là ngài vui vẻ mau mắn cùng đoàn hành quyết lên đường, tiến về cây cầu ngăn cách kinh thành với khu ngoại ô Bãi Dâu. Bốn người lính đỡ chiếc gông nặng nề đè trên cổ vị mục tử, các lính khác võ trang gươm giáo đi hai bên, hai quan lớn cỡi ngựa đi sau cùng, dân chúng chạy theo rất đông đảo với thái độ vô cùng kính phục. Một anh lính giơ cao tấm thẻ ghi bản án. Cứ đi khoảng một trăm bước, người đó dừng lại, đánh mấy tiếng cồng, rồi đọc to lên: “Dương nhân Hoài Hóa mang tội truyền giảng đạo Gia-tô tại nhiều tỉnh nước ta, nên phải xử giảo.” (Hoài Hóa là chữ Hán do các quan dịch tên cha Gagelin).
Đến pháp trường[1], vị linh mục bình tĩnh cầu nguyện, mặc cho quân lính thi hành nhiệm vụ. Họ trói ngài vào chiếc cọc giữa, lấy dây vòng quanh cổ, rồi cuốn hai đầu dây vào hai cọc bên. Hiệu lệnh thứ nhất ban ra, tiểu đội quân lính cầm lấy hai đầu dây. Đến hiệu lệnh thứ hai, họ kéo thật mạnh. Trong khoảnh khắc, vị chứng nhân Chúa Kitô trút thơi thở cuối cùng.
Một học trò cũ của cha Odorico và một thầy giảng của cha Jaccard xin phép nhận thi hài vị Tử đạo đem an táng tại khu vườn một tín hữu ở Phủ Cam. Vì nghi ngờ môn đệ Chúa Kitô sẽ sống lại sau ba ngày, vua Minh Mạng truyền khai quật mồ vị chứng nhân, khám nghiệm kỹ lưỡng, rồi mới yên lòng cho chôn lại. Thế mà vẫn phân vân, vua truyền cho dân làng Phủ Cam lo canh giữ, nếu vị Tử đạo sống lại, hay người ta lấy mất thi hài, họ sẽ phải đền mạng. Trong thư từ của 2 cha Jaccard Phan và Gilles Delamotte có ghi chép sự việc hy hữu trên.
Năm 1946, thi hài vị tử đạo được đưa về chủng viện Hội Thừa sai Paris. Ngày 27.05.1900, Đức Giáo hoàng Lêô XIII đã suy tôn ngài lên bậc Chân phước. Ngày 19.06.1988, Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong ngài lên bậc Hiển Thánh.
Ban Biên tập Lịch sử TGP Huế
Nguồn: tonggiaophanhue.org
----------------------------
[1] Pháp trường đây có thể là khu vực Chợ Dinh, nằm cuối đường Chi Lăng, thành phố Huế hiện thời. Nhưng địa điểm chính xác thì không rõ.