Lời Chủ Chăn Giáo phận Xuân Lộc
Tháng 11 – 2021
‘LẠY THẦY, XIN DẠY CHÚNG CON CẦU NGUYỆN’ (Lc 11: 1)
Quý Cha và Quý Tu sĩ
mến,
Tại quảng trường Thánh
Phêrô, ngày 21 tháng 3 năm 2007, Đức
Thánh Cha Bênêđictô XVI đã trình bày cuộc đời Thánh Giustinô, Triết gia và vị Tử đạo, một
Giáo phụ nổi bật thế kỷ thứ hai. Thánh nhân trải qua thời gian dài tìm kiếm
chân lý, tìm hiểu nhiều trường phái triết học Hylạp khác nhau. Sau cùng, như
chính Ngài thuật lại trong chương đầu của cuốn ‘Đối Thoại với Tryphon’, cuộc gặp
gỡ với một nhân vật bí nhiệm truyền cho Ngài phương thế đạt ‘triết lý đích thực:
‘Một cụ già Ngài đã
gặp trên bờ biển, khởi sự dẫn dắt ngài thấy rằng: về mặt con người, thật không
thể thoả mãn được khát vọng hướng tới thần linh của ngài chỉ bằng sức lực riêng của mình. Và
rồi người đó chỉ cho thấy những vị tiên tri xa xưa là những người ngài có thể
tìm đến để tìm ra con đường đến với
Thiên Chúa và ‘triết lý đích thực’. Lúc chuẩn bị ra đi, cụ già này
thúc giục ngài hãy cầu nguyện để
xin cho những cánh cổng ánh sáng được
mở ra với ngài’.[1]
Tháng 11 về, ngay từ
ngày đầu tháng, Giáo hội nâng lòng chúng ta về quê thật phúc thật:
‘Anh em là những người đồng hương với
các thánh, và là người nhà của
Thiên Chúa’ (Ep 2: 19)
Tháng 11 về, bên phần mộ và trước di ảnh các Tiền Nhân, theo
làn hương quyện bay, chúng ta tưởng niệm:
‘Công cha ba năm tình thâm lai láng,
Nghĩa mẹ đậm đà chín tháng cưu mang.
Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn,
Biết lấy chi đền nghĩa khó khăn…’
Tháng 11 về khơi lên trong ta khát khao của các Tông đồ: Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện’ (Lc
11: 1)
1. Những tâm tư sâu lắng
a. Đôi dòng này đến tay Quý Cha và quý Tu sĩ vào lúc đại dịch
Covid-19 tạm lắng, nhưng còn đọng lại những
tấm lòng mục tử, những bàn tay nhân ái …nâng đỡ chăm sóc cộng đoàn dân
Thiên Chúa…những gia đình lương dân túng thiếu…những bệnh nhân trong các bệnh
viện dã chiến và những người trong các khu cách ly. Quý cha đã hết mình cho
đoàn chiên, làm nên những cộng đoàn sinh động trong bác ái và tất cả chúng ta
chứng kiến ơn Chúa ‘Vò bột không
vơi, choé dầu không cạn’ (1V 17: 14), càng cho đi lại càng có thêm…
b. Trong một bệnh viện dã chiến, bác sĩ Giám đốc đã gọi các
thiện nguyện viên đến khu vực quàn xác những người quá cố vì covid-19, được bọc
trong những tấm nhựa thô sơ, tuy ông chưa chung niềm tin với chúng ta, ông đã xin thiện nguyện viên nguyện cầu cho
họ…
c. Nếp sinh hoạt hiện
đại, cuộc mưu sinh thời công nghiệp…nằm ngổn ngang trên con đường tìm đến sự
thinh lặng và hồi tâm…Tình trạng bất an tinh thần do cuộc sống bị thúc đẩy bởi
tốc độ của một xã hội công nghệ cao…Và tự đáy lòng, phận người luôn mang nỗi trống
trải, khắc khoải tìm lẽ sống…
d. Những sự việc
đang diễn ra ào ạt…khơi lên trong ta lòng khao khát của tông đồ xưa: ‘Lạy Thầy xin dạy chúng con cầu nguyện…’ (Lc
11: 1)
2. Mạc khải về cầu
nguyện
a. Ngày nay cuộc sống mở rộng, tiếp xúc đa phương đa chiều.
Những quan hệ liên tôn được thiết lập, từ đó một số Kitô hữu muốn hội nhập những
phương thức cầu nguyện của các tôn giáo bạn. Trong hoàn cảnh Giáo phận Xuân Lộc,
nhiều khu vực chúng ta sống chung với anh chị em Phật giáo nên các dạng tu tập
Thiền thường được nhắc đến…Có những người nồng nhiệt muốn hội nhập cái bên
ngoài mà có lẽ chưa hiểu cho đủ điều
sắp tiếp thu, chẳng hạn chưa phân biệt Yoga (một trong lục phái, liên hệ mật
thiết với phái Samkhya, thời hậu Veđa, sau Upanisad) với Thiền (Thiền Tông, thế
kỷ 6 sau Chúa Giáng Sinh, do sư tổ Bồ-đề Đạt-ma từ Ấn độ qua Trung Hoa, thuộc
Phật giáo Đại Thừa), hay chưa hiểu quan niệm căn bản của Phật Giáo Đại Thừa:
Trung Quán tông, Duy Thức tông…
b. Điều cơ bản cần xác nhận: Cầu nguyện luôn đi liền làm một với lòng tin của tôn giáo mình
đón nhận. Giữa đạo Hinđu, đạo Phật so với đạo Công giáo, Thượng đế học, Nhân học và Cứu độ học… khác
hẳn nhau.
c. Một Phật tử niệm
Phật, hành thiền… mang trong lòng mục tiêu giáo lý nhà Phật. Một Kitô hữu cầu nguyện ấp ủ trong
lòng tình yêu… trong sự thật về Thiên Chúa và sự thật của một người, được Thiên Chúa yêu
thương tác thành bao bọc chở che. Đây là cuộc đối thoại riêng tư, thân mật, sâu xa giữa người ấy và
Thiên Chúa. Đây là sự thông hiệp của
thụ tạo vào Thiên Chúa Ba Ngôi, đặt nền tảng trên ‘Lời đem đến sự sống đời đời’ (Ga 6: 68), trên Bí tích Thánh Tẩy và Bí tích Thánh Thể,
nguồn mạch và đỉnh cao của đời sống Giáo hội. Cầu nguyện đích thực là cuộc gặp gỡ giữa hai tự do, tự do vô hạn
của Thiên Chúa và tự do hữu hạn của con người. Cầu nguyện đích thực vốn bao gồm nỗ lực hoán cải, là một ‘cái
phi’, vươn lên từ ‘cái mình’ của tôi, tới ‘cái Ngài’ của Thiên Chúa mà Đấng
ngàn trùng siêu việt vẫn không triệt tiêu ‘cái ngã’ của tôi.
d. Mạc khải về cầu
nguyện đứng trên bốn trụ cột:
- Trước hết, qua
sách Sáng Thế, mạc khải về cầu nguyện dựa trên nguồn cội và phẩm tính của con người: ‘Thiên Chúa đã phán: Ta hãy làm ra người
theo hình ảnh Ta, như hoạ ảnh của Ta’ (St 1: 26). Thực tại này hàm ẩn
sâu xa khả năng, sự thông hiệp cùng Thiên Chúa và nghĩa lý của nguyện cầu. Thực
tại cao cả này cũng nằm ở trung tâm mạc
khải về tội nguyên tổ. Chính hình ảnh Thiên Chúa nơi con người do tội
nguyên tổ làm bầm dập kéo theo nỗi khó khăn trong tương quan với Thiên Chúa khi
cầu nguyện. Các Giáo phụ đã
đặt cầu nguyện trên nền tảng con người là ‘hình ảnh, hoạ ảnh’ Thiên Chúa. Mục
đích của cầu nguyện là càng ngày càng trở nên trong suốt với Thiên Chúa, được ‘biến đổi vào Thiên Chúa’, được ‘thần hoá’.
- Thứ hai, Giao ước Thiên Chúa ký kết với con
người là nền tảng cầu nguyện. Đã
diễn ra theo dòng lịch sử cứu độ, Giao ước thời Nôê, Abraham, Giacóp (Israel),
Môsê …Qua Giao ước, Thiên Chúa nâng đoàn dân thành Dân được chọn, dân riêng của
Thiên Chúa. Các Tiên tri rất nhiều lần, đã đánh thức dân về sự bất trung với
Giao ước…từ tình huống này, nảy
sinh nguyện cầu. Chính trong nguyện cầu, vừa mang chiều kích cá nhân vừa cộng
đoàn… dân Chúa nhận thức mình tuỳ thuộc Thiên Chúa, mình cần tình yêu Thiên
Chúa và cao rao những kỳ công và vinh quang Thiên Chúa… Trải qua hai cuộc lưu
đày và những biến cố bi ai của lịch sử, những người còn trung thành cầu nguyện hướng lòng lên Đức Chúa
làm thành ‘số nhỏ còn lại’ (le petit reste).
- Thứ ba, chiều kích Kitô. Với Tân Ước trong Máu Chúa
Kitô, cầu nguyện là hoạt động cơ bản và trung tâm của Giáo hội. Đây là cộng đoàn những
người thuộc về Chúa Kitô nhờ đã được Thánh Tẩy. Trong Chúa Kitô các tín hữu đến
trước Chúa Cha, Đấng lắng nghe và đáp ứng những lời nguyện cầu. Giáo hội xác
tín chúng ta là ‘con trong Đấng là
Con’, thông hiệp cùng Chúa Cha (Ga 14-17), trong mối dây ‘yêu mến’ liên
kết: ‘Chính Cha yêu các con bởi các con đã yêu Ta’ (Ga 16: 27)
- Thứ tư, chiều kích
Thánh Thần. Thánh Gioan và
Phaolô đưa ta vào chiều sâu của sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong
nguyện cầu. Thánh Gioan chiêm
ngắm Chúa Thánh Thần là Đấng Bầu cử, Đấng Bầu Chữa và Đấng Ủi An…luôn luôn ở
cùng chúng ta: ‘Đấng Bầu Chữa, Thánh Thần
Cha sẽ sai đến nhân danh Ta, chính Ngài sẽ dạy các con mọi sự, và sẽ
nhắc cho các con nhớ lại mọi điều Ta đã nói với các con’ (Ga 14: 26)…’Đấng Bầu
Chữa đến, Đấng Ta sẽ gởi đến từ nơi Cha, Thần Khí sự thật, từ Cha xuất ra, Ngài
sẽ làm chứng về Ta’ (Ga 15: 26). Thánh
Phaolô đưa chúng ta vào thực tại Chúa Thánh Thần ‘sống động’ trong
chúng ta, dẫn ta thông hiệp cùng Chúa Cha, chuyển cầu giúp chúng ta bằng những
than thở khôn tả ‘Abba’ như Chúa Giêsu: ‘Phàm ai được Thần Khí Thiên Chúa dẫn
đưa, thì họ là con cái Thiên Chúa…Thần Khí của hàng nghĩa tử, nhờ đó ta kêu lên: ‘Abba, lạy Cha…’ đồng thừa tự với
Đức Kitô, một khi ta cùng cam chịu khổ với Ngài, để rồi cùng chia phần vinh hiển
với Ngài’ (Rm 8: 14. 15. 17)
3. Con đường
Giêsu, ‘Đàng và sự thật, sự sống, chính là Ta!’ (Ga 14: 6)
a. Nội dung thiết yếu của cầu nguyện đi trong hướng đôi của chuyển động: Chính trong
Chúa Thánh Thần mà Chúa Con đi vào trong thế gian để hoà giải
thế gian với Chúa Cha, thì cũng trong cùng một chuyển động và trong cùng một
Chúa Thánh Thần, Chúa Con nhập thể
trở về với Chúa Cha, sau khi hoàn tất Thánh Ý Chúa Cha bằng bản thân hiện hữu
hiến mình, mà đỉnh cao là hy tế Thập giá và Phục Sinh vinh hiển của Người.
b. Qua chuyển động
đôi này, Chúa Giêsu, Thiên
Chúa-Nhập Thể nổi bật lên vai
trò chiếc cầu nối bắc ngang
qua vực thẳm cách biệt ngàn trùng giữa Thiên Chúa và con người, là con đường vượt qua giữa đêm tối
mịt mù của tội lỗi và chết chóc đến cùng Thiên Chúa. Đức Tin Giáo hội nhận biết
nơi Người sự tự mạc khải dứt khoát của Thiên Chúa, mạc khải tình yêu thân tình
thâm sâu nhất nơi Thiên Chúa, mạc khải tình yêu thiết tha dành cho con người bất
chấp sự cách biệt ngàn trùng giữa Đấng tuyệt đối siêu việt với con người thân
phận bấp bênh tro bụi.
c. Trên con đường ‘Giêsu’, nhân tính của Người giữ vai trò quan trọng, đáp ứng cấu trúc
tiếp nhận tri thức của con người. Mắt thấy, tai nghe và trí lòng nghiệm được thực
tại vô hình, thực tại siêu việt thiên linh. Thánh Têrêsa Avila bác bỏ mạnh mẽ cám dỗ của một số phương
pháp không lấy nguồn từ Tin Mừng, những phương pháp này đề nghị loại bỏ nhân
tính của Chúa Giêsu, để cho tâm trí trống ‘không’, nghiệm được cái ‘không’,
thuận theo sự dìm mình một cách mơ hồ vào vực thẳm của thiên tính[2]. Tôn sư Eckhart nói về sự chìm đắm ‘trong vực thẳm mơ hồ của thần
tính là một nơi tối tăm mà Chúa Ba Ngôi không bao giờ chiếu sáng’[3]. Không thể đồng hoá cái ‘không’ ấy với sự uy nghi của Thiên Chúa được mạc
khải trong Đức Giêsu Kitô. Thực là sai lầm khi sử dụng trào lưu ‘Thần học tiêu cực’ đến nỗi phủ nhận
‘không chỉ việc suy niệm những công trình cứu độ được Thiên Chúa hoàn tất trong
lịch sử Cựu Ước và Tân Ước, nhưng cả chính ý tưởng về một Thiên Chúa Ba Ngôi, Đấng
là Tình Yêu. Khuynh hướng tìm sự hoà hợp chiêm niệm Kitô giáo với các phương thức
tĩnh lự Đông phương cần được khảo sát kỹ lưỡng hầu tránh mối nguy hiểm rơi vào
đạo hỗn hợp.[4]
d. Con đường Giêsu còn
bao hàm ‘Lương thực của Thầy là làm
theo ý Đấng đã sai Thầy, và chu toàn công việc của Người’ (Ga 4: 34).
Ý Chúa Cha muốn Chúa Con trở nên Tin Mừng cho mọi người, mọi thời, mọi nơi, nhất
là cho những tội nhân và những ‘người nghèo’…(Lc 4: 18). Tại núi Tabor, ý của Chúa Cha không những
không xét tới khả năng ở lại trong ‘ba lều’, mà còn xác nhận cuộc khổ hình…mở
ra ơn phục sinh, biểu lộ tình yêu của Chúa Cha cho Chúa Con và cho toàn nhân loại. Cầu nguyện chiêm niệm Kitô giáo, trên con đường Giêsu luôn đưa tới
tình yêu tha nhân, tới hành động đón nhận thử thách, bởi vì một cách chính xác
điều này đưa con người tới gần Thiên Chúa, giải đáp vấn nạn hóc búa muôn thuở về
khổ đau và cái chết…
Quý Cha và quý Tu sĩ
mến,
‘Khía cạnh cao quý nhất của phẩm giá con người là con người được kêu gọi hiệp thông với
Thiên Chúa. Ngay từ lúc mới sinh ra, con người đã được mời gọi đối thoại với
Thiên Chúa’[5]… Thiên Chúa mở cho chúng ta cánh cửa cầu nguyện…
Hằng ngày, chúng ta vẫn
nhủ lòng:
‘Thức dậy đi, hồn tôi hỡi,
thức dậy đi, hỡi đàn sắt đàn cầm,
tôi còn đánh thức cả bình minh’ (Tv 57: 9)
‘Một thụ tạo càng đến gần Thiên Chúa thì càng có lòng tôn kính lớn lao trước
Nhan Thánh Chúa Ba Ngôi. Như thế
người ta sẽ hiểu và sống lời lẽ của Thánh
Augustinô:
‘Ngài có thể gọi tôi
là bạn, tôi nhận ra mình là người tôi tớ’
và ở một khảo luận khác, thánh nhân nói:
‘Khi một người tự bảo
rằng: tôi không xứng đáng được điều này, thì người ấy được đầy Chúa Thánh Thần
, người tôi tớ đó đã nhận ra Chủ mình, và từ tôi tớ người ấy đã đáng trở nên bạn
hữu’ (Quando autem nec ad hoc dignum se dicit, vere plenus Spritu
Sancto erat, qui sic servus Dominum agnovit, et ex servo amicus fieri meruit)[6]
Mẹ Giáo hội dạy chúng ta biết Thiên Chúa là Đấng nào…và tôi là ai…
Mẹ Giáo hội dạy chúng ta biết ai muốn nên lành nên thánh, muốn
có hoa trái mục vụ…thì không thể
xem nhẹ cầu nguyện…Tôi biết tôi cần Chúa…
Nguyện xin Chúa Ba Ngôi, qua sự chuyển cầu của Thánh Cả và Đức
Trinh Mẫu Vô Nhiễm diễm phúc là những mẫu gương cầu nguyện và chu toàn Thánh Ý Chúa, khơi mãi lên trong ta
lòng khao khát của các Tông đồ:
‘Lạy Thầy xin dạy
chúng con cầu nguyện’ (Lc 11: 1)
+ Gioan Đỗ Văn Ngân
Giám mục Giáo phận Xuân Lộc
Nguồn: giaophanxuanloc.net (29.10.2021)
[1] ĐTC Bênêđictô XVI, ‘Thánh Giustinô-Triết gia và vị Tử đạo’,
dg. Lm Đaminh Phạm Ngọc Thuỷ, trg Bản
Tin Giáo phận Xuân Lộc, tháng 10 năm 2021, trg 13-16.
[3] X. Thánh Bộ Giáo lý Đức Tin, Thư gởi các Giám mục Giáo hội Công giáo về một số khía cạnh của việc
nguyện ngắm Kitô giáo, ngày 15 tháng 10 năm 1989, ghi chú 15, số 12,
[6] Thánh Bộ Giáo lý Đức Tin, Thư gởi các Giám mục Giáo hội Công giáo về một số khía cạnh của việc
nguyện ngắm Kitô giáo, ngày 15 tháng 10 năm 1989, ghi chú 36, số 31