|
Đáp ca: Tv 95,1-2a.2b-3.11-12a.12b-13 (Đ. Lc 2,11) 1. “Một tình yêu được diễn tả qua sự yếu đuối của một hài nhi mới sinh” |
A. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
Bài đọc 1: Is 9,1-6
Một người con đã được ban tặng cho ta.
Bài trích sách ngôn sứ I-sai-a.
1 Đoàn dân đang lần bước giữa tối tăm
đã thấy một ánh sáng huy hoàng ;
đám người sống trong vùng bóng tối,
nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi.
2 Chúa đã ban cho họ chứa chan niềm hoan hỷ,
đã tăng thêm nỗi vui mừng.
Họ mừng vui trước nhan Ngài
như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt,
như người ta hỷ hoan khi chia nhau chiến lợi phẩm.
3 Vì cái ách đè lên cổ dân,
cây gậy đập xuống vai họ,
và ngọn roi của kẻ hà hiếp, Ngài đều bẻ gãy
như trong ngày chiến thắng quân Ma-đi-an.
4 Vì mọi giầy lính nện xuống rần rần
và mọi áo choàng đẫm máu
sẽ bị đem thiêu, làm mồi cho lửa.
5 Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta,
một người con đã được ban tặng cho ta.
Người gánh vác quyền bính trên vai,
danh hiệu của Người
là Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh,
người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hoà bình.
6 Người sẽ mở rộng quyền bính,
và lập nền hoà bình vô tận
cho ngai vàng và vương quốc của vua Đa-vít.
Người sẽ làm cho vương quốc được kiên cố vững bền
trên nền tảng chính trực công minh,
từ nay cho đến mãi muôn đời.
Vì yêu thương nồng nhiệt,
Đức Chúa các đạo binh sẽ thực hiện điều đó. Đó là lời Chúa.
Đáp ca: Tv 95,1-2a.2b-3.11-12a.12b-13 (Đ. Lc 2,11)
Đ. Hôm nay, Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho chúng ta ; Người là Đấng Ki-tô, là Đức Chúa.
1 Hát lên mừng Chúa một bài ca mới,
hát lên mừng Chúa, hỡi toàn thể địa cầu !
2a Hát lên mừng Chúa, chúc tụng Thánh Danh ! Đ.
2b Ngày qua ngày, hãy loan báo ơn Người cứu độ,
3 kể cho muôn dân biết Người thật là vinh hiển,
cho mọi nước hay những kỳ công của Người. Đ.
11 Trời vui lên, đất hãy nhảy mừng, biển gầm vang cùng muôn hải vật,
12a ruộng đồng cùng hoa trái, nào hoan hỷ. Đ.
12b Hỡi cây cối rừng xanh,
13 hãy reo mừng trước tôn nhan Chúa,
vì Người ngự đến, Người ngự đến xét xử trần gian.
Người xét xử địa cầu theo đường công chính,
xét xử muôn dân theo chân lý của Người. Đ.
Bài đọc 2: Tt 2,11-14
Ân sủng của Thiên Chúa đã biểu lộ cho mọi người.
Bài trích thư của thánh Phao-lô tông đồ gửi ông Ti-tô.
11 Anh thân mến, ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người. 12 Ân sủng đó dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này. 13 Sở dĩ như vậy, là vì chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Ki-tô Giê-su là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang. 14 Vì chúng ta, Người đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta, khiến chúng ta thành Dân riêng của Người, một dân hăng say làm việc thiện.
Đó là lời Chúa.
Tung hô Tin Mừng: Lc 2,10-11
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại : Hôm nay, Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho chúng ta. Người là Đấng Ki-tô, là Đức Chúa. Ha-lê-lui-a.
Tin Mừng: Lc 2,1-14
Hôm nay, Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em.
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.
1 Thời ấy, hoàng đế Au-gút-tô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. 2 Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Qui-ri-ni-ô làm tổng trấn xứ Xy-ri. 3 Ai nấy đều về thành của mình mà khai tên tuổi. 4 Bởi thế, ông Giu-se cũng từ thành Na-da-rét, miền Ga-li-lê, lên thành vua Đa-vít gọi là Bê-lem, miền Giu-đê, vì ông thuộc gia đình và dòng tộc vua Đa-vít. 5 Ông lên đó khai tên cùng với bà Ma-ri-a là người đã thành hôn với ông, lúc ấy bà đang có thai. 6 Khi hai người đang ở đó, thì bà Ma-ri-a đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. 7 Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ.
8 Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật. 9 Bỗng sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu toả chung quanh, khiến họ sợ hãi kinh hoàng. 10 Nhưng sứ thần bảo họ : “Anh em đừng sợ. Này tôi loan báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng sẽ là niềm vui cho toàn dân : 11 Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô, là Đức Chúa. 12 Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người : anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ.” 13 Bỗng có đạo binh thiên quốc đông đảo hợp với sứ thần cất tiếng ca tụng Thiên Chúa rằng :
14 “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.” Đó là lời Chúa.
B. CHIA SẺ LỜI CHÚA
Trong Đêm cực thánh này, Phụng vụ nói với chúng ta về một sự chiếu sáng. Thiên Chúa chiếu sáng Đêm cực thánh này bằng ánh huy hoàng của Đức Ki-tô, ánh sáng thật sự của thế gian.
Bài đọc 1
Trong bài đọc 1, ngôn sứ I-sai-a kể cho chúng ta nghe về ánh sáng và Tin Mừng cho biết lời ngôn sứ này được thực hiện trọn vẹn trong một ánh sáng rực rỡ. Trong bài đọc 2, thánh Phao-lô đề cập đến ân sủng của Thiên Chúa, đến tình yêu quảng đại và nhưng không Người ban cho tất cả chúng ta.
Trong một thời điểm mà thử thách và đau khổ bao vây dân Ít-ra-en, ngôn sứ I-sai-a công bố một ánh sáng xuất hiện : “Đoàn dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng ; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi.” Tại sao lại có ánh sáng này ?Thưa bởivì “một trẻ thơ chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta”, ngôn sứ I-sai-a quả quyết. Ánh sáng này báo ơn cứu độ, niềm vui và hy vọng. “Chúa đã ban cho họ chứa chan niềm hoan hỷ, đã tăng thêm nỗi vui mừng.”
Thật ra, trẻ thơ này mang những danh hiệu đầy hứa hẹn : “Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh, người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hoà bình.” Trẻ thơ này mang bình an đến trong một thế giới đầy dẫy hận thù và bạo lực, chiến tranh và tang tóc. Nhờ trẻ thơ này mà hoà bình sẽ kéo dài vô tận. Trẻ thơ này thuộc dòng dõi vua Đa-vít, sẽ ngự trị trên ngai vua Đa-vít. Việc hoàn tất đầu tiên lời sấm của I-sai-a là việc chào đời của con vua A-kháp, tuy nhiên biến cố này không làm thoả mãn lòng trông mong của dân Ít-ra-en, họ vẫn không ngừng trông đợi biến cố khác quan trọng hơn vì lời sấm của I-sai-a rất long trọng. Trải qua nhiều thế kỷ, dân Ít-ra-en mới hiểu rằng lời sấm này báo trước việc chào đời của Đấng Mê-si-a.
Bài Tin Mừng
Bài Tin Mừng theo thánh Lu-ca nói về ánh sáng. Trong vùng Bê-lem, lúc ấy có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật : “Bỗng sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu toả chung quanh, khiến họ sợ hãi kinh hoàng.” Ở đây chúng ta thấy lại chủ đề ánh sáng, chiếu sáng trong bóng tối, ánh sáng chiếu rọi đêm đen.
Thế giới của chúng ta hôm nay là một thế giới đầy dẫy bóng tối. Thiên niên kỷ thứ ba bắt đầu với biết bao hy vọng, niềm vui, bình an và ánh sáng, nhưng không lâu sau đó bóng tối trở lại bao trùm, nhiều nơi trên thế giới với những cuộc xung đột đẫm máu, gây ra biết bao tang tóc cho nhân loại. Cái ác không ngừng lan toả. Thế giới tràn ngập bóng tối do sự ích kỷ của con người. Những cuộc xung đột và những căng thẳng phát sinh từ sự ích kỷ của những người đang sống trên hành tinh chỉ mưu cầu lợi ích cho bản thân mình mà thôi.
Những người chăn chiên kinh hoàng vì ánh sáng này là một hiện tượng lạ thường, hoàn toàn bất ngờ, một hiện tượng đánh dấu sự can thiệp từ trời cao. Khi Thiên Chúa dùng quyền năng của Người can thiệp vào lịch sử, con người hoang mang, sợ hãi, kinh khiếp. Nhưng sứ thần bảo họ : “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng sẽ là niềm vui cho toàn dân : Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô, là Đức Chúa.” Chúng ta tham dự vào việc hoàn thành lời sấm của ngôn sứ I-sai-a : “Một trẻ thơ chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta, Người gánh vác quyền bính trên vai.” Trẻ thơ này là Đức Ki-tô, là Đấng Mê-si-a. “Đức Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người”, như lời sứ thần nói với Đức Trinh Nữ Ma-ri-a trong biến cố Truyền Tin (x. Lc 1,32-33). Trẻ thơ này chào đời trong thành của vua Đa-vít ở Bê-lem. Lẽ ra thì Người không phải được sinh ra ở đó vì Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se cư ngụ tại Na-da-rét, nhưng trong sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa, Người lại giáng sinh tại Bê-lem, do hoàng đế Au-gút-tô ra lệnh kiểm tra dân số, … cho nên vào thời điểm đó, tại Bê-lem không có chỗ trọ cho gia đình khiêm tốn này mà Đức Ma-ri-a sắp tới ngày sinh nở. Vì thế, việc Đức Giê-su chào đời tại Bê-lem là một dấu chỉ của sự nghèo khó, khiêm hạ. Nhưng đàng khác, việc Đức Giê-su giáng sinh là một biến cố vĩ đại, như đã được ngôn sứ I-sai-a báo trước. Mi-kha, một vị ngôn sứ khác, đã báo cho biết Đấng Mê-si-a phải chào đời tại Bê-lem vì Người thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Biến cố này mang hai ý nghĩa như thường thấy trong Kinh Thánh, chẳng hạn như trong lời báo tin của các sứ thần Chúa : “Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người : anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ.” Dấu chỉ này thật là lạ lùng, thật là nghịch lý. Đấng Cứu Thế, Đức Ki-tô là một trẻ sơ sinh nghèo khó, không có lấy một cái nôi cho tử tế và phải nằm trong một máng cỏ. Ý định của Thiên Chúa được hoàn tất trong những nghịch cảnh. Ngay từ đầu, chúng ta thấy Đức Giê-su không phải đến để biểu dương quyền bính, nhưng để chia sẻ thân phận con người của chúng ta, chia sẻ với những người nghèo nhất và khiêm tốn nhất. Điều đó mang đến cho chúng ta một niềm hy vọng lớn lao vì Đức Giê-su chia sẻ phận người của chúng ta, nhờ ân sủng Người ban cho chúng ta trong mọi hoàn cảnh.
Bài đọc 2
Trong bài đọc 2, thánh Phao-lô vẫn đề cập đến ân sủng : “Ân sủng Thiên Chúa đã được biểu lộ”, đó là tình yêu nhưng không, quảng đại của Thiên Chúa. Trong lễ Giáng Sinh, ân sủng của Thiên Chúa chiếu sáng thế giới, mang ơn cứu độ cho tất cả mọi người. Đó là một ân huệ tuyệt vời Thiên Chúa đã làm cho chúng ta. Trong Tin Mừng Gio-an, Đức Giê-su đã nói : “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một” (Ga 3,16) và trong một đoạn khác, ông Gio-an quả quyết : “Tôi đến không phải để xét xử thế gian.” Ơn cứu độ đến với việc huỷ bỏ cái ác, khi con người học cách từ bỏ nếp sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này, đồng thời chờ đợi hạnh phúc mà chúng ta hy vọng có được khi vinh quang của Đức Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa vĩ đại, là Đấng cứu độ chúng ta tỏ hiện.
Ánh sáng của Đức Giê-su trong lễ Giáng Sinh chuẩn bị cho việc biểu lộ vinh quang. Vinh quang tình yêu thần linh đem lại niềm vui tròn đầy cho tất cả mọi tâm hồn. Đức Giê-su đến để tự hiến tế và cứu chuộc chúng ta thoát khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta, khiến chúng ta thành dân riêng của Người, một dân hăng say làm việc thiện.
Trong Đêm cực thánh này, chúng ta hãy đón nhận ánh sáng của lễ Giáng Sinh, đón nhận Đức Giê-su Ki-tô, Đấng cứu độ chúng ta chào đời trong cảnh cơ hàn. Chúng ta phải làm sống lại niềm hy vọng của chúng ta vì từ nay về sau Thiên Chúa đã hiện diện trên thế giới. Trong những hoàn cảnh bế tắc nhất, trong những tình huống gian khổ nhất của cuộc sống thường ngày, chúng ta vững tâm vì Thiên Chúa là Đấng-ở-cùng-chúng- ta, luôn phù hộ và che chở chúng ta. Người luôn đồng hành với chúng ta.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giê-su, xin cho mầu nhiệm Giáng Sinh là mầu nhiệm của tình yêu cao cả, luôn tác động đến mọi suy nghĩ, lời nói, việc làm và cách ứng xử của chúng con.
Tự vấn :
Trong đời sống đức tin thường ngày, chúng ta đã sống mầu nhiệm Giáng Sinh như thế nào ?
C. BÀI ĐỌC THÊM
1. “Một tình yêu được diễn tả qua sự yếu đuối của một hài nhi mới sinh” (J. Potel, trong “Jesus, l’histoire vraie”, Centurion, 1994, tr. 94).
“Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ.” Khó mà nói một cách đơn giản hơn điều mà người ta xem như là một trong những mầu nhiệm lớn lao nhất : Việc giáng sinh của Con Thiên Chúa ở giữa loài người ! Thông tin này trước hết sẽ liên quan đến những người chăn chiên, một nghề bị các người cầm quyền tôn giáo Ít-ra-en khinh khi. Tuy nhiên, thiên thần đã thông tin cho họ. Tin Mừng Đấng Cứu Thế đến với những người nghèo, những người mà Đức Giê-su sẽ tuyên bố là những người có phúc. Họ sẽ không tìm thấy Đấng Cứu Thế trong một dinh thự. Người chỉ là một Hài Nhi nằm trong máng ăn của súc vật.
“Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người : anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ.” Đức tin cũng đòi hỏi những người nghèo trút bỏ những khát vọng thầm kín nhất : sự can thiệp mạnh mẽ của Thiên Chúa không được tỏ lộ ra bằng những hành động hiếu chiến, như là Ít-ra-en đã mong đợi trong suốt lịch sử của mình. Nó loan báo tình yêu của Chúa qua sự yếu đuối của một trẻ sơ sinh. Các thiên thần mừng hát : “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.” Thiên Chúa yêu thương loài người và muốn trao ban bình an cho họ. Người sẽ không thiết lập bình an bằng sức mạnh của vũ khí, mà bằng em bé nghèo hèn này.
2. “Sự khiêm nhường của Thiên Chúa” (Mgr. L. Daloz, trong “Dieu a visité son peuple”, Desclée de Brouwer, tr. 20).
“Chúng ta thuộc lòng câu chuyện Đức Giê-su giáng sinh. Nó vừa quen thuộc, vừa mầu nhiệm. Cũng như toàn bộ hai chương đầu của thánh Lu-ca, nó liên kết những hoàn cảnh cụ thể, rõ ràng, với sự thâm nhập của sự can thiệp từ nơi khác. Những nơi chốn, những thời điểm, những con người được xác định rõ ràng : Đó là Bê-lem lúc kiểm tra dân số, phòng trọ, máng ăn súc vật. Đó là bà Ma-ri-a và ông Giu-se, thuộc dòng dõi vua Đa-vít, đến đăng ký tên các ngài trong thành của tổ tiên mình ; những người chăn chiên canh giữ đàn vật ban đêm. Đó không phải là những con người vĩ đại, cũng không phải là những biến cố được lưu giữ lại trong lịch sử các quốc gia. Trong những hoàn cảnh tầm thường này, một thế giới huyền bí tỏ hiện : các thiên thần, vinh quang Chúa, một lời loan báo kỳ lạ. Một sự chứng nhận, một mặc khải : Hài Nhi mới sinh là Đấng Cứu Thế, là Đức Ki-tô, là Chúa, và việc Người đến là một niềm vui lớn lao cho toàn dân. Dấu chỉ để nhận ra không có gì là đặc biệt : “Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ …” Vừa mới chào đời, Đức Giê-su đã được chỉ định, và những nhân chứng đầu tiên là những người chăn chiên, cho thế giới của những người khiêm nhường. Thiên Chúa luôn xuất hiện như thế trong sự khiêm nhường, giữa những biến cố hằng ngày, và sự tỏ hiện của Người không có ồn ào, nhưng kín đáo. Ðể nhận ra sự xuất hiện của Người, phải biết lắng nghe lời của các nhân chứng, phải biết đón nhận sứ điệp hướng về một nơi khác. Nếu chúng ta biết chú ý, những hoàn cảnh bình thường nhất cũng được soi rõ bằng một thứ ánh sáng mới, ánh sáng của “vinh quang Thiên Chúa”, nó không làm loà mắt, nó nói cho những người khiêm hạ. Bây giờ Thiên Chúa có thể đến ở giữa chúng ta. Đức Giê-su đã đến như thế đó !”
