CHƯƠNG TRÌNH DƯỚI ÁNH SÁNG LỜI CHÚA
LỄ CHÚA HIỂN LINH
BÀI 48: BA VUA, CÁC ĐẠO SĨ HAY
CÁC NHÀ CHIÊM TINH?
Nữ tu Maria Lê Thị Thanh Nga,
Dòng Đức Bà Nữ Kinh Sĩ Thánh Âu tinh
và Nhóm Phiên Dịch Các giờ kinh Phụng vụ
WGPSG (03.01.2024) – Chúa nhật tới đây, chúng ta mừng lễ Hiển Linh, mừng biến
cố Thiên Chúa tỏ mình cho chư dân qua cuộc nhập thể làm người của Ngôi Hai
Thiên Chúa.
Trong bài học hỏi lần này, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về những người liên quan cách đặc biệt đến lễ Hiển Linh. Đó là các nhà chiêm tinh, còn được gọi là các đạo sĩ hay Ba Vua.
Tin Mừng theo thánh
Mát-thêu 2,1-12
2 1 Khi Đức Giê-su ra đời tại
Bê-lem, miền Giu-đê, thời vua Hê-rô-đê trị vì, có mấy nhà
chiêm tinh từ phương Đông đến Giê-ru-sa-lem, 2 và
hỏi : “Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu ? Chúng tôi đã thấy
ngôi sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người.” 3 Nghe
tin ấy, vua Hê-rô-đê bối rối, và cả thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao. 4 Nhà
vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho
biết Đấng Ki-tô phải sinh ra ở đâu. 5 Họ trả lời : “Tại
Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng : 6 Phần
ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của
Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời.” 7 Bấy
giờ vua Hê-rô-đê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi
sao đã xuất hiện. 8 Rồi vua phái các vị ấy đi Bê-lem và dặn
rằng : “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy,
xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người.” 9 Nghe
nhà vua nói thế, họ ra đi. Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông, lại dẫn
đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại. 10 Trông
thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng. 11 Họ vào nhà, thấy Hài
Nhi với thân mẫu là bà Ma-ri-a, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo
tráp, lấy vàng, nhũ hương và một dược mà dâng tiến. 12 Sau
đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hê-rô-đê nữa, nên đã đi lối khác
mà về xứ mình.
-o-o-o-o-o-
Trong bốn quyển Tin Mừng, chỉ
có tác giả Mát-thêu kể lại câu truyện các nhà chiêm tinh từ phương Đông đến
Giê-ru-sa-lem bái lạy Hài Nhi Giê-su (Mt 2,1-12). Bản văn này được đưa vào phụng
vụ lễ Hiển Linh.
Hạn từ Hiển Linh có gốc
Hy-lạp là Ἐπιφάνια (số nhiều của Ἐπιφάνεια).
Trong Tân Ước, thuật ngữ này được dùng để nói về sự xuất hiện hay sự tỏ hiện của
Chúa Giê-su Ki-tô trước muôn dân.
Tin Mừng Mát-thêu kể rằng
có những nhà chiêm tinh từ phương Đông đến
Giê-ru-sa-lem, họ đã được một ngôi sao dẫn đường đến với một Hài Nhi vừa
mới sinh, nằm trong máng cỏ. Câu truyện về ngôi sao dẫn đường xem ra đã
làm ứng nghiệm sấm ngôn của vị chiêm tinh Bi-lơ-am thuộc dân ngoại về một ngôi
sao xuất hiện, trong sách Dân số 24,15-17 : “Sấm ngôn
của Bi-lơ-am, sấm ngôn của người mắt vẫn mở. Sấm ngôn của người nghe các lời
Thiên Chúa, và biết những tư tưởng của Đấng Tối Cao, được Đấng Toàn Năng cho
nhìn linh thị … Đó là một vì sao mọc lên từ Gia-cóp, một
vương trượng trỗi dậy từ Ít-ra-en.” Những người Do-thái giáo xưa
đã coi đây là lời tiên báo về Đấng Mê-si-a, Vị Cứu Tinh của dân Ít-ra-en, còn
Ki-tô giáo thì hiểu lời này báo trước sự xuất hiện của Đức Giê-su Ki-tô.
Trước hết, chúng ta cần hiểu rằng, ngành Chiêm tinh học có nguồn gốc lâu đời từ vùng Lưỡng Hà, vào thế kỷ 2 trước Công nguyên, sau đó lan sang Hy-lạp cổ đại, La-mã cổ đại, Ả-rập và châu Âu. Trong tiếng Hy-lạp, các nhà chiêm tinh được gọi là μάγοι (magoï, danh từ ở số nhiều). Thuật ngữ Hy Lạp μάγοι trong
thời Cổ đại thường ám chỉ các thành viên của đẳng cấp tư tế trong tôn giáo Ba
Tư, chuyên về chiêm tinh và thiên văn, hai ngành học này về sau liên kết với
nhau, được chứng thực đã có từ thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên. Sau đó, thuật
ngữ này chỉ định một cách tổng quát hơn những cá nhân có kiến thức vượt trội
trong nền văn hoá cổ đại, đó là các nhà chiêm tinh hoặc các pháp sư.
Các nhà chiêm tinh thường dự
đoán những sự kiện tương lai trong cuộc sống dựa trên vị trí của các thiên thể.
Họ không phải là vua như chúng ta vẫn thường gọi Ba Vua. Gốc gác
hoàng tộc của các nhà chiêm tinh xuất hiện vào đầu thế kỷ thứ 3, từ ông
Tertullianô, một giáo phụ gốc Carthage ở châu Phi và là một nhà bút chiến
chống lại dị giáo đương thời. Ngài muốn nhấn mạnh đến các nhà chiêm tinh là vua
theo cách nói của Thánh vịnh 71,11 đã chép : “Mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng, muôn dân nước thảy đều phụng sự.” Còn con số 3 thì được giáo phụ Origênê đề cập muộn thời hơn một chút. Trong một
bài giảng về sách Sáng thế, chính Origênê là người đầu tiên đặt con số của các
nhà chiêm tinh là ba, có lẽ dựa trên ba món quà dâng tặng Hài Nhi
Giê-su (vàng, hương, một dược).
Một số truyền thống Ki-tô
giáo lần đầu tiên xác định danh tánh của 3 vị là vào khoảng thế kỷ thứ 8, cho
rằng tên của 3 vị chiêm tinh là Melchior, Gaspard và Balthazar (phổ
biến trong văn phẩm Excerpta latina barbari, gốc tiếng Hy-lạp).
Và đây là bức chân dung của 3 nhà thông thái do Jacques de Voragine, một nhà
biên niên sử người Ý đã phác hoạ như sau :
- Vị đầu tiên tên là
Melchior, là một cụ già với mái tóc trắng và bộ râu dài, đã dâng vàng cho Hài
Nhi Giê-su như dâng cho một vị vua (vàng tượng trưng cho Vương quyền của Đấng
Ki-tô).
- Vị thứ hai là Gaspard, còn
trẻ, không có râu, nước da màu đỏ, dâng nhũ hương để tỏ lòng tôn kính Thiên
tính của Đức Giê-su.
- Vị thứ ba, gương mặt đen và
đầy râu, tên là Balthazar, với một dược trong tay, đây là một loại hương liệu
dùng để ướp xác người chết ở thời Cổ đại, báo trước cái chết của Đức Giê-su.
Vào đầu thời Trung Cổ, các
nhà thần học Ki-tô giáo đã liên kết ba nhà thông thái với ba lục địa được biết
đến vào thời đó gồm châu Âu, châu Á và châu Phi. Do đó, hình ảnh ba nhà
thông thái biểu trưng cho tính phổ quát của Ơn Cứu Độ do Chúa Giê-su Ki-tô mang
đến, không chỉ dành cho dân tộc Do-thái mà còn cho toàn thể nhân loại. Ba vị
còn là biểu tượng cho tuổi trẻ, tuổi trung niên và tuổi già, nên Ơn Cứu Độ của Chúa được hiểu là dành cho muôn thế hệ. Phương Tây thời Trung Cổ tôn kính Melchior, Gaspard và Balthazar như những vị thánh và Giáo Hội Công Giáo còn cho biết thánh tích của 3 vị được lưu giữ từ thế kỷ 12, tại vương cung thánh đường Cologne thuộc nước Đức, trong khi
truyền thống Chính thống giáo thì bảo tồn các tráp đựng vàng, nhũ hương và một
dược tại tu viện thánh Phao-lô trên núi Athos.
Dù sao trong Tin Mừng, thánh
Mát-thêu chỉ kể về các nhà chiêm tinh, các nhà thông thái từ phương Đông, từ thế
giới ngoại giáo đã đến Giê-ru-sa-lem. Tâm hồn của các nhà chiêm tinh hướng về
Thiên Chúa đồng thời với bước chân của họ hướng về Bê-lem. Họ tìm kiếm
Chúa, nhưng chính Chúa là Đấng đã dẫn dắt cuộc tìm kiếm từ bước đầu cuộc hành
trình. Họ tìm kiếm Chúa khi nhìn lên bầu trời và tìm kiếm Chúa từ cõi lòng
thâm sâu, họ khao khát tìm kiếm khi đặt thẳng những câu hỏi về Đấng Ki-tô với mọi
người, buộc người Do-thái từ nhà vua đến các thượng tế, kinh sư phải nhớ lại
Sách Thánh đã từng báo trước rằng “Tại Bê-lem, miền Giu-đê, sẽ là nơi vị
lãnh tụ chăn dắt dân Ít-ra-en sẽ ra đời.”
Khi nhìn thấy một ngôi
sao khác lạ trên bầu trời, và với một ý tưởng mơ hồ lan truyền xung quanh, rằng
người Do-thái đang chờ đợi Vị Cứu Tinh cũng là Vua của họ, thì các nhà chiêm
tinh thấy phải lên đường, dõi theo ánh sao mà đi và khám phá cho bằng được Vua
dân Do-thái là ai. Đối với họ, đây là một cuộc hành trình phải thực hiện, không
trì hoãn. Liền sau đó, họ được vua Hê-rô-đê cho vời đến cách bí mật để
thăm dò tình hình. Thánh Mát-thêu cho thấy các nhà chiêm tinh không hề sợ hãi
trước mọi vua chúa và quyền lực. Họ mạnh mẽ và hăng hái bởi lòng can đảm thánh
thiêng. Họ ra đi trên những nẻo đường quanh co, nhưng với ánh sao sáng, đó cũng
là con đường duy nhất dẫn họ đến với Chúa để tôn kính bái thờ.
Thánh Âu-tinh từng giải
thích : “Từ tâm hồn khát khao tìm kiếm của các nhà chiêm tinh, đã khai
mào những gì cần triển nở và lan toả cho toàn thể vũ trụ nhân sinh” (Bài giảng
201). Và thánh Tô-ma A-qui-nô coi hình ảnh các nhà chiêm tinh là dấu hiệu
cho thấy “Không có một phận người nào bị loại trừ khỏi Ơn Cứu Độ của Chúa
Ki-tô” (Tổng luận Thần học III, Q. 36, art. 3). Cuối cùng, Đức Giáo Hoàng
Bê-nê-đi-tô XVI đã từng lấy hình ảnh các nhà chiêm tinh làm chủ đề cho Ngày Giới
Trẻ Thế giới ở Cologne năm 2005. Ngài đã suy gẫm rất lâu về các nhà chiêm tinh,
về “những con người có tâm hồn khắc khoải”, vì đó là hình ảnh của “những
người tìm kiếm Thiên Chúa”, “thuộc mọi nền văn hoá, mọi lối suy nghĩ và
mọi nếp sống”, những người đang trên đường nỗ lực “nhận ra sự thật về bản
thân, về Thiên Chúa và về thế giới”.
Một điểm thú vị nữa trong Tin
Mừng, đó là sau khi đã gặp gỡ, bái thờ Vua dân Do-thái, các nhà chiêm tinh
không trở lại “con đường cũ” để tường trình với vua Hê-rô-đê, nhưng
đã chọn “một lối khác mà về xứ mình”. Điều này giúp
người tín hữu chúng ta càng xác tín rằng : không một ai đã gặp Đức Giê-su
mà lại muốn tiếp tục sống và đi trên lối mòn xưa cũ nữa. Phải chọn lựa thay đổi,
phải kiên cường giữ vững đức tin, không nao núng sợ hãi trước bất cứ thế lực
nào.
Thánh Mát-thêu có ý định gì
khi mở đầu Tin Mừng bằng câu truyện về những người dân ngoại đến bái lạy Hài
Nhi Giê-su ? để rồi khi kết thúc Tin Mừng, tác giả tường thuật lời Chúa
Giê-su Ki-tô Phục Sinh mời gọi các môn đệ : “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” ? Chắc chắn thánh Mát-thêu muốn chúng ta hiểu rằng : nhân vật Giê-su lịch sử,
một Thiên Chúa làm người để cứu thoát con người, Đấng Ki-tô ấy, không dành
riêng cho dân Ít-ra-en, nhưng là Vị Cứu Tinh của muôn dân muôn nước, của cả
nhân loại chúng ta ngày nay.
Cầu nguyện
Lạy Chúa, khi Ngài trao vương
quyền cho Đức Giê-su Ki-tô, Con Một Ngài và cũng là Con của Đức Trinh Nữ
Ma-ri-a, thì dân nghèo đã được nghe Tin Mừng cứu độ, và từ phương xa, các nhà
chiêm tinh đã đến thờ lạy. Hôm nay, xin Chúa làm cho triều đại của Đức Giê-su
Ki-tô mau đến trên khắp mặt đất này, để Người đem bình an cho nhân loại được
Chúa yêu thương, để Người bênh vực quyền lợi của những ai nghèo hèn khốn khổ.
“Ước gì mọi sắc tộc trần
gian
nhờ Người được chúc lành,
và muôn dân thiên hạ
ngợi khen Người có phúc.
Chúc tụng Đức Chúa là
Thiên Chúa Ít-ra-en,
chỉ có Ngài làm nên những
công trình kỳ diệu.
Muôn muôn đời xin chúc tụng
danh Chúa hiển vinh,
Ước gì vinh quang Chúa chiếu
toả khắp hoàn cầu. A-men. A-men.” (Tv
72, 17-19)
Nguồn: tgpsaigon.net