CHƯƠNG TRÌNH DƯỚI ÁNH SÁNG LỜI CHÚA
LỄ CÁC
THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM (24.11)
BÀI 40: TỬ ĐẠO HAY LÀM CHỨNG
Lm. I-nha-xi-ô Hồ Văn Xuân,
Tổng Đại Diện Gp. Sài Gòn
và Nhóm Phiên Dịch Các giờ kinh Phụng vụ
WGPSG (16.11.2023) – Chúa nhật tới đây, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam sẽ mừng
kính trọng thể Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Trong tâm tình tri ân và tự hào là
con cháu của các vị, đồng thời noi gương các vị, sống chứng nhân của Đức Giê-su
Ki-tô giữa cuộc đời, chúng ta sẽ tìm hiểu ý nghĩa của danh xưng Tử Đạo theo
cách diễn tả của Kinh Thánh.
1. Trong Cựu Ước
Danh xưng “tử đạo” là
kết quả của một quá trình chuyển đổi ngữ nghĩa của từ “nhân chứng”. Từ
“nhân chứng” mang nghĩa tích cực hơn là từ “tử đạo” mang nghĩa thụ động. Phân
biệt như thế không giảm nhẹ giá trị “làm chứng” của các vị trong hoàn cảnh bị
bách hại cũng như thái độ đón nhận của các ngài. Chúng ta có thể lấy trường hợp
của ngôn sứ Ê-li-a làm ví dụ, ông không chết một cái chết “tử đạo” nhưng ông bị
bách hại vì “lòng nhiệt thành đối với ĐỨC CHÚA” và ông phải trốn tránh khỏi sự
“lùng bắt của kẻ muốn lấy mạng sống ông” (x. 1 V 14,19), và sau đó ông đã được
Chúa đưa lên trời trong cơn gió lốc trên chiếc xe rực lửa (x. 2 V 2,11). Hoặc
ông U-ri-gia-hu đã bị giết vì dám tuyên sấm nhân danh ĐỨC CHÚA (x. Gr
26,20-24).
Trong tiếng Hip-ri, từ éđ - ʿēḏ (עֵד) có nghĩa là “nhân chứng”
hay “bằng chứng”, nó có thể là một vật cụ thể được đưa ra để thiết lập một
giao ước giữa hai bên, như giao ước giữa ông Gia-cóp và ông La-ban khi lấy đống
đá làm biểu tượng cho nhân chứng (x. St 31,44-48) ; cũng vậy, ông Giô-suê
đã dựng “tảng đá lớn” để làm chứng về giao ước ông đã thay mặt dân kết ước với
ĐỨC CHÚA (x. Gs 24,27) ; hoặc con cái Rưu-vên và con cái Gát lấy “bàn
thờ làm bằng chứng” (x. Gs 22,34). Trong cơn quẫn bách, ông Gióp vẫn tin rằng
ông có một “chứng nhân trên trời” là Thiên Chúa, Đấng sẽ bảo lãnh cho ông (G
16,19).
Cũng nên nói đến luật của người
Ít-ra-en đòi hỏi phải có nhân chứng khi kết tội một người, nhưng một nhân chứng
thì không đủ mà phải là hai hay ba nhân chứng (x. Ds 35,30 ; Đnl
19,15). Nhân chứng không chỉ cho lời khai mà còn là người đầu tiên phải
ném đá tội nhân (x. Đnl 17,6-7). Ngoài ra, Lề Luật cũng cấm làm chứng gian và
coi đó là tiếp tay với kẻ xấu (x. Xh 23,1). Vì thế phải cẩn thận xét xem những
lời chứng có xác thực không, việc này đòi hỏi sự khôn ngoan của các thẩm
phán ; câu chuyện bà Su-san-na được cứu nhờ sự khôn ngoan của cậu bé
Đa-ni-en minh hoạ cho điều đó (x. Đn 13).
Cho đến thời Do-thái bị người
Hy-lạp cai trị, cái chết của bảy anh em được thuật lại trong 2 Mcb 7,1-41 như
là hình bóng của các vị tử đạo trong Ki-tô giáo sau này. Thật vậy, tác giả đã
trình bày rõ ràng, cho thấy các vị này đã tự nguyện chấp nhận khổ đau và cái chết
để trung tín với Lề Luật và tôn giáo của mình. Trước đó tác giả còn cho độc giả
biết một kinh sư Do-thái là ông E-la-da đã can đảm đón nhận cái chết hầu để lại
cho những người trẻ một tấm gương cao đẹp về cái chết tự nguyện và cao quý, vì
đã trung thành với Lề Luật (x. 2 Mcb 6,18-31).
Như vậy, ta thấy từ éđ (עֵד) đã có bước tiến triển từ ý nghĩa của việc
“làm chứng”, “chứng từ” hay “nhân chứng”, đến việc chấp nhận những khổ đau, hoặc
phải hy sinh “mạng sống” của mình, để chứng tỏ lòng trung thành với niềm tin của
mình, và đó là ý nghĩa của từ “tử đạo” sau này.
2. Trong Tân Ước
Danh từ Hy-lạp mác-túys - martys (μαρτυς)
tương đương với từ Híp-ri éđ - ʿēḏ (עֵד) trong Cựu Ước. Nghĩa thông thường của từ
này chỉ bất kỳ người nào đưa ra một lời chứng về những gì người đó thấy tận mắt
hoặc nghe tận tai. Lời chứng của họ rất cần để công việc được
giải quyết (x. Mt 18,16). Người mang lời chứng được gọi
là chứng nhân. Ngoài phạm vi pháp lý, từ này còn
được dùng cả trong lãnh vực lịch sử và tôn giáo.
Các Tông Đồ là những chứng
nhân đặc biệt, được Thiên Chúa chọn để uỷ thác việc làm chứng về Chúa Giê-su chết
và sống lại (x. Cv 10,39-41). Sau khi sống lại, chính Chúa Giê-su đã nhiều lần
hiện ra với các Tông Đồ, để mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh và không ngừng
nhắc nhở họ làm chứng nhân về những gì mắt thấy tai nghe để rao giảng cho muôn
dân (x. Lc 24,45-48 ; Cv 1,8). Nhưng ở đây, đối tượng cũng như nội dung của
lời chứng rất đặc biệt, đó chính là sự phục sinh của Đức Ki-tô. Thật vậy, nếu Đức
Ki-tô không sống lại thì lời rao giảng của các Tông Đồ về Người sẽ là vô ích
(x. 1 Cr 15,14).
Danh từ mác-túys - martys (μαρτυς)
được sử dụng nhiều nhất trong sách Công vụ Tông Đồ (13 lần), và chỉ mang một ý
nghĩa duy nhất, đó là các Tông Đồ là chứng nhân của Đức Giê-su Ki-tô (x. Cv
1,8.22 ; 2,32 ; 3,15 ; 5,32 ; 13,31 …). Để lời chứng của
các Tông Đồ sinh hiệu quả, Chúa Giê-su hứa ban cho các ông sức mạnh của Thánh
Thần (x. Cv 1,8a), làm cho các ông mạnh mẽ, can đảm và khôn ngoan khi bị điệu đến
trước vua chúa quan quyền (x. Lc 12,11-12 ; Mt 10,17-20 ; Cv 4,13.
33 ; 6,10). Như vậy, các Tông Đồ cũng như các vị tử đạo sau này, không đơn
độc khi phải làm chứng, nhưng có Chúa Thánh Thần cùng làm chứng với họ (x. Cv
5,32).
Đặc biệt, Tin Mừng theo thánh Gio-an sử dụng động từ mác-tuy-rê-ô - martyreō (μαρτυρέω : 33 lần) có nghĩa là làm chứng và danh từ mác-tuy-ri-a - martyria (μαρτυρία : 14 lần) có nghĩa là lời chứng. Sự
phân biệt này thấy rõ trong câu nói của Chúa Giê-su : “Người làm
chứng về những gì Người đã thấy đã nghe, nhưng chẳng ai
nhận lời chứng của Người” (Ga 3,32). Một điều cần ghi
nhận là trong Tin Mừng Gio-an, việc làm chứng và lời chứng không nhằm vào một sự
kiện lịch sử của Chúa Giê-su, nhưng nhằm vào chính con người Đức Giê-su là
Con Thiên Chúa hằng sống (x. Ga 1,15.34).
Tân Ước còn sử dụng danh từ mác-tuy-ri-on
– martyrion (μαρτύριον) để chỉ sự làm chứng, bằng chứng, chứng từ về đức
tin, về Tin Mừng và về Chúa Giê-su :
“Anh em sẽ bị điệu ra
trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy để nên bằng chứng cho
họ và các dân ngoại được biết” (Mt 10,18).
“Các Tông Đồ đưa ra lời
chứng về sự sống lại của Chúa Giê-su” (Cv 4,33).
Lời chứng còn là sự tuyên
xưng, do đó ngay cả với những người không được chứng kiến Đức Giê-su tận
mắt, nhưng tuyên xưng Người là Chúa thì cũng kể là một lời chứng. Lời tuyên
xưng là điều cần thiết của ơn cứu độ (x. Rm 10,9-10). Dĩ nhiên, việc tuyên
xưng không tránh khỏi những khó khăn như bị đe doạ, bắt bớ, cầm tù (x.
Cv 4,18-21), cả việc bị đánh đòn (x. Cv 5,40), thậm chí bị giết hại (x. Cv
7,59-60).
Cuộc bách hại vào đầu kỷ
nguyên Ki-tô giáo đã khiến cho khái niệm “chứng nhân” mang một chiều kích sâu
xa hơn, những chứng nhân có thể phải giáp mặt với cái chết. Cái chết của ông
Tê-pha-nô là cái chết của một chứng nhân mà thánh Phao-lô nói với Chúa trong một
cuộc xuất thần : “Khi người ta đổ máu ông Tê-pha-nô, chứng nhân
của Chúa, thì chính con cũng có mặt, con tán thành và giữ áo cho
những kẻ giết ông ấy “ (Cv 22,20). Cái chết của ông Tê-pha-nô
có đổ máu, và theo truyền thống Ki-tô giáo, cái chết này được gọi
là tử đạo, nghĩa là lấy máu mình hay nói cách khác, hy sinh mạng sống
mình để làm chứng cho Đức Ki-tô (x. Cv 7,55-60). Trong Hội Thánh của Đức Ki-tô,
việc tử đạo mang lấy một ý nghĩa mới mẻ : đó là bắt chước Đức Ki-tô và hiệp
thông trọn vẹn vào việc làm chứng và vào công trình cứu độ của Người. Thật vậy, Đức
Ki-tô chính là vị tử đạo hoàn hảo và trọn vẹn nhất, Người mang tất cả
những yếu tố của một vị tử đạo : sự sợ hãi tột cùng của một con người trước
cuộc Thương Khó, nhưng Thiên Chúa đã sai thiên sứ đến tăng sức cho Người (x. Mt
26,37-38 ; Lc 22,44) ; phải chịu những lời tố cáo, lăng mạ, xúc phạm
khi bị xét xử (x. Lc 23,9-11) ; sau cùng bị kết án cách bất công dù người
ta chẳng tìm ra tội chứng của Người, ngay cả giới quan quyền cũng phải nhận là
Người vô tội (x. Lc 23,14-15) ; khi bị hành hình, Chúa Giê-su cũng không hề
oán than mà còn tha thứ cho những kẻ xử tử mình (x. Lc 23,34).
Cầu nguyện
Biết lấy chi đền đáp CHÚA
bây giờ
vì mọi ơn lành Người đã
ban cho ?
Tôi xin nâng chén mừng ơn
cứu độ
và kêu cầu thánh danh ĐỨC
CHÚA.
Lời khấn nguyền với CHÚA,
tôi xin giữ trọn,
trước toàn thể dân Người.
Đối với CHÚA thật là đắt
giá
cái chết của những ai
trung hiếu với Người.
Vâng lạy CHÚA, thân này là
tôi tớ,
tôi tớ Ngài, con của nữ tỳ
Ngài,
xiềng xích trói buộc con,
Ngài đã tháo cởi.
Con sẽ dâng lễ tế tạ ơn,
và kêu cầu thánh danh ĐỨC CHÚA.
Lời khấn nguyền với CHÚA,
tôi xin giữ trọn,
trước toàn thể dân Người,
tại khuôn viên đền CHÚA,
giữa lòng ngươi, hỡi Giê-ru-sa-lem ! (Tv
116,12-19).
Nguồn: tgpsaigon.net