KHÔNG CHIÊU DỤ TÍN ĐỒ, MỘT NGUYÊN TẮC TRUYỀN GIÁO
Lm Giuse Phạm Đình Ngọc SJ
WHĐ (12/09/2023) – “Làm sao cho nhiều người biết Thiên Chúa?” luôn là câu hỏi đau đáu của Giáo hội và nhất là của những nhà truyền giáo. Đã có rất nhiều bài phân tích cách thế rao truyền Tin
mừng, giới thiệu Thiên chúa cho nhiều người ở mọi thời. Trong đó, Giáo hội Công
giáo thường nhắc đến cụm từ then chốt này: “Truyền
giáo nhưng không chiêu dụ tín đồ.” Cụ thể, Đức Giáo Hoàng Phanxicô thường xuyên
nhấn mạnh đến cụm từ này. Mới đây nhất trong chuyến tông du Mông Cổ, ngài cũng đề cập đến cụm từ này. Thậm chí trong bối cảnh
giáo hội Mông Cổ còn vô cùng non trẻ, nhưng không vì thế
mà các nhà truyền giáo hối hả chiêu dụ nhiều người vào Giáo hội. Vậy đâu là nền
tảng cho cụm từ đặc biệt này?
1. Cách thức Chúa Phục sinh truyền giáo
Có lẽ lời mời gọi
mạnh mẽ nhất mà các nhà truyền giáo tiên khởi nhận được đến từ chính Chúa Giêsu
phục sinh. “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa
cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần - πορευθέντες οὖν μαθητεύσατε πάντα τὰ ἔθνη, βαπτίζοντες αὐτοὺς εἰς ¹ τὸ ὄνομα
τοῦ πατρὸς καὶ τοῦ υἱοῦ καὶ τοῦ ἁγίου πνεύματος (Mt 28,19). Về mặt ngữ pháp,
thánh Matthêu dùng: μαθητεύσατε – làm cho…trở thành môn đệ. Tiếng Anh chỉ đơn thuần dịch: “make
disciples of all nations”. Tôi thích bản dịch tiếng Việt hơn vì nó nói lên một
tiến trình để một người chưa biết Chúa trở nên người con của Chúa.
Chắc chắn Thiên
Chúa không buộc mọi người phải tin vào Người. Suốt cuộc đời rao giảng tin mừng,
Đức Giêsu không chiêu dụ các tín đồ. Ngài lấy lời hằng sống mà chia sẻ cho những
ai Ngài gặp gỡ. Ngài làm phép lạ, nêu gương sáng và nhất là dùng tình thương để
cảm hoá tha nhân. Chính cung cách hành xử này mà nhiều người muốn đến với Ngài.
Trước là để lắng nghe Đức Giêsu giảng dạy; sau là xin làm môn đệ của
Ngài. Trên hành trình này, có những môn đệ đã bỏ cuộc vì những đòi hỏi của Tin
mừng. Đức Giêsu không hề trách cứ hoặc loại trừ. Ngài tuyệt đối tôn trọng quyết
định của từng người.
Nếu Đức Giêsu phục
sinh không tuân thủ nguyên tắc truyền giáo trên đây, Ngài chỉ phán một lời là mọi
người phải tin vào Chúa. Không! Thiên Chúa của chúng ta luôn tôn trọng tự do của
từng người. Thậm chí có vị thánh ví von: “Thiên Chúa dựng
nên con người không cần con người, nhưng để cứu chuộc con người, thì Ngài cần đến
sự cộng tác của con người.” (Thánh Augustinô). Điều này cũng đúng
trong lãnh địa truyền giáo.
Phải nhìn nhận ở
đây rằng: Tuy Thiên Chúa cần sự cộng tác của chúng ta, nhưng Ngài hằng làm việc để
giúp chúng ta yêu mến Chúa. Nếu có mặt trong những năm tháng Đức Giêsu huấn luyện
các tông đồ, chúng ta sẽ hiểu được thầy Giêsu đã trang bị những điều cần thiết
cho các ngài. Ngoài việc ghi nhớ những lời dạy, Đức Giêsu luôn mời gọi các môn
đệ yêu mến Thiên Chúa. Đức Giêsu phục sinh đã hỏi Phêrô đến ba lần: “Con có yêu
mến thầy không?” (Ga 21,1-19). Cả ba lần Phêrô trả lời: “Có, thầy biết con yêu mến thầy”. Sau đó Đức
Giêsu mới trao đàn chiên, trao cộng đoàn, trao cánh đồng truyền giáo cho ngài chăm sóc. Điều này có nghĩa là người truyền giáo cần lấy tình yêu
Thiên Chúa làm ngọn đèn chỉ dẫn mình và cộng đoàn. Chỉ với tình yêu này, con
người mới thích thú và tin theo Đức Giêsu
2. Chứng tá trọng lượng hơn lời ngon ngọt
Với tình yêu
Thiên Chúa, người truyền giáo biết những cách thế đến với muôn người. Tình yêu
này sẽ giúp người truyền giáo không nóng vội, không áp bức người khác phải tin
vào Thiên Chúa. Nói cách khác, tình yêu là hương thơm giúp những tâm hồn chưa
biết Chúa dễ dàng nhận ra thế nào là Đạo, thế nào là trở nên người môn đệ của
Chúa. Đó là những chứng nhân của Chúa giữa đời. Họ sống giữa dân và tôn trọng
những nét văn hoá địa phương. Hoặc nói như cố giáo hoàng Bênêđictô XVI: “Giáo hội không chiêu dụ tín đồ. Nhưng đúng hơn là
Giáo hội phát triển nhờ sự thu hút.”[1]
Về mặt tâm lý,
người tốt thường được nhiều người yêu mến. Lý tưởng mà nói, những nhân chứng của
Chúa cần nên người con ngoan của Chúa. Họ cần là những người tốt trước. Rồi với
cái tốt này, những người xung quanh được thu hút và muốn làm quen. Họ muốn biết vì đâu mà người môn đệ có thể “sống giữa thế
gian nhưng không thuộc về thế gian”.?
Về mặt đức tin, “lời nói như gió thoảng mây bay, gương bày như tay lôi kéo”, tôi chỉ tin khi tôi cảm thấy được thu hút.
Sự thu hút của những chứng nhân tin mừng có thể nhận thấy nơi những tổ chức thiện
nguyện, những cánh đồng mà họ hăng say phục vụ. Họ cũng là những con người bình
thường với tình yêu phi thường. Họ làm chứng rằng Chúa phục sinh đang cho họ
tình yêu để ra đi rao giảng tin mừng. Những chứng nhân của Chúa thu hút con người
bằng vẻ đẹp của niềm vui, của bình an, hạnh phúc và kể cả những khổ đau họ sẵn
lòng cam chịu.
Viết đến đây tôi
nhớ đến lời dạy của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI: “Người thời nay tin vào
các chứng nhân hơn là thầy dạy, và nếu họ có tin vào thầy dạy là vì các thầy dạy
ấy đã là những chứng nhân”. Theo nghĩa này, chúng ta thấy Đức Giêsu sau khi nói: “làm cho môn dân trở thành môn đệ”, mới đề cập đến những lời giảng dạy: “Dạy
bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em
mọi ngày cho đến tận thế.”
(Mt 28,20).
Nếu chỉ tuyên
truyền hoặc hùng hồn giảng giải lời Chúa mà không sống tốt, thử hỏi mấy người tin vào Chúa. Đừng quên Đức Tin không phụ thuộc vào những
lời giảng hùng hồn thuyết phục, nhưng dựa vào Đấng là tình yêu. Chính tình yêu
của Chúa mới có sức thu hút các tâm hồn. Hiểu theo nghĩa này, mỗi nhà truyền
giáo được mời gọi trở nên khuôn mặt dễ thương của Chúa Giêsu giữa đời, gần gũi
với con người. Từ bối cảnh này, nhiều tâm hồn sẽ được thu hút bởi vẻ đẹp của Đức
Giêsu phục sinh. Sẽ đến một giây phút nào đó, họ quyết định: “Tôi muốn trở nên
môn đệ của Chúa Giêsu. Tôi muốn được rửa tội.”
3. Vài chỉ dẫn của Giáo hội
Để tránh không
chiêu dụ tín đồ, Giáo hội có nhiều chỉ dẫn để giúp mỗi tín hữu biết cách loan
báo tin mừng.
Truyền giáo
là một nhiệm vụ thánh thiêng
Thiên Chúa mong
muốn và khao khát cứu độ con người. Giáo hội thôi thúc mọi
thành phần dân Chúa thực thi sứ mạng này bằng cách: “Hãy để mình hiện diện với tất cả mọi người và cho mọi dân tộc”[2].
Trong sứ mạng thánh thiêng này, mỗi người hướng đến đời sống chứng tá, gương mẫu,
với lời giảng dạy, các bí tích và những phương thế trao ban ân sủng
khác. Giáo hội sẽ không ngại mở ra con đường rộng thoáng và vững chắc
giúp nhiều người tham dự trọn vẹn vào mầu nhiệm Chúa Kitô. Nhờ đó, họ được
sống và sống dồi dào. (Ga 10,10).
Thấy mọi sự mới mẻ trong Đức Kitô
Có lẽ một trong
những khó khăn của sứ mạng truyền giáo là vấn đề hội nhập vào tâm tư tình cảm,
văn hóa và xã hội của từng người, từng sắc tộc trên thế giới[3].
Về điểm này, Giáo hội đưa ra một chìa khóa để giúp người truyền giáo: “Tất cả những gì là chân lý và ân sủng được tìm
thấy nơi các dân tộc như sự hiện diện ẩn khuất của Thiên Chúa [...] bất
cứ điều gì tốt đẹp đã được gieo vãi trong tâm trí con người, hay
trong những nghi lễ và văn hoá riêng của các dân tộc, sẽ không bị hủy
bỏ, nhưng được chữa lành, thăng tiến và hoàn thiện để Thiên Chúa
được tôn vinh.”[4]
Đối thoại
chứ đừng đối đầu
Trên đường trở về
từ Mông Cổ, Đức giáo hoàng Phanxicô đưa ra chỉ dẫn này: “Loan báo Tin Mừng là bắt
đầu đối thoại với văn hóa. Có việc Phúc Âm hóa văn hóa và có sự hội nhập văn
hóa của Tin Mừng, bởi vì các Kitô hữu cũng thể hiện những giá trị Kitô giáo của
mình bằng nền văn hóa của chính dân tộc của họ. Điều này hoàn toàn trái ngược với
một sự thuộc địa hóa tôn giáo.”[5]
Càng tôn trọng đối thoại, chúng ta càng nhận ra những giá trị của tin mừng,
càng được nhiều người yêu mến, và hy vọng có nhiều người tin yêu nơi Thiên
Chúa.
Ngoài ra,
chúng ta có thể:
- Chia sẻ niềm vui nỗi buồn với những ai bạn
gặp gỡ, biết rõ những ước vọng và những khó khăn của họ, cảm thông
với họ trong nỗi lo âu về sự chết. Đối với những ai tìm kiếm hòa
bình, Giáo hội muốn đưa ra lời giải đáp qua việc đối thoại huynh đệ,
bằng cách mang lại cho họ sự bình an và ánh sáng phát xuất từ Tin mừng.
- Hãy can đảm hoạt
động và cộng tác với mọi người để điều hành cách tốt đẹp các sinh
hoạt kinh tế xã hội.
- Liên kết chặt chẽ
với nhân loại trong cuộc sống và trong hoạt động, các môn đệ Chúa
Kitô hy vọng sẽ trình bày một chứng tá đích thực về Chúa Kitô, và
dấn thân hoạt động vì phần rỗi của họ, kể cả ở những nơi mà việc
rao giảng về Chúa Kitô còn bị hạn chế.
- Với những bạn không
cùng tôn giáo, người Công giáo cần tránh những thái độ dửng dưng, bài bác
hay đối kháng. Hãy cùng nhau cộng tác trong lãnh vực xã hội và kỹ
thuật cũng như văn hóa và tôn giáo. Chấp nhận những khác biệt vốn luôn có,
để từ đó, chúng ta phải sống cho Thiên Chúa và cho Chúa Kitô với chính
phong cách sống tốt lành[6].
Tạm kết
Có thể ai đó phản
biện rằng: “Nếu không mạnh mẽ rao giảng tin mừng, xông pha thuyết phục các linh
hồn, làm sao Giáo hội thêm đông số?” Lời phát biểu này dễ gây hiểu lầm. Thứ nhất, nếu bị số lượng cám dỗ, chúng ta dễ mất kiên trì để
làm chứng cho Thiên Chúa. Thứ hai, thực tế lời chứng thu hút các tâm hồn nhất
chỉ khi nó đụng chạm vào trái tim của họ. Nghĩa là họ cảm thấy và được Thiên
Chúa thu hút. Cuối cùng, đừng quên Thiên Chúa mới là nhân tố chính để giúp người
khác tin theo Đạo.
Thiên Chúa là
trung tâm để nối kết Giáo hội với muôn người. Cụ thể Chúa Thánh Thần có sức hoạt
động và thúc bách những tâm hồn chưa biết Chúa. Là những tín hữu, những nhà
truyền giáo, chúng ta cộng tác hết mình, cần “lòng say mê rao giảng Tin mừng, tức là nhiệt tâm tông đồ. Đó
là một chiều kích sống còn đối với Giáo hội: cộng đoàn các môn đệ của Chúa
Giêsu thực sự được sinh ra là cộng đoàn tông đồ, truyền giáo, chứ không phải là
chiêu dụ tín đồ. Chúng ta cần phân biệt điều này ngay từ đầu: truyền giáo không
giống với chiêu dụ tín đồ.”[7]
[1] Bài giảng trong Thánh lễ khai mạc của Đại hội lần
V của các Giám mục Châu Mỹ Latinh và Caribê, Aparecida, 13 tháng 5 năm 2007.
[3] Thời đại hôm nay cũng nên có những người biết
sử dụng thông thạo các phương tiện kỹ thuật và truyền thông xã hội.
Không gian mạng (là món quà của Thiên Chúa), là mảnh đất để giao rắc hạt giống
Lời Chúa.
[5] https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2023-09/dtc-phanxico-phong-van-chuyen-bay-tu-mong-co-ve-roma.html
[6] Là công dân tốt, họ phải thực sự và tích
cực vun đắp lòng yêu nước, tuy nhiên phải hết sức tránh xa thái độ
phân biệt chủng tộc và chủ nghĩa quốc gia quá khích, phải cổ võ
tình yêu thương đại đồng của nhân loại. (Ad Gentes số 15)