NỘI DUNG CHÍNH

Số 531-534: Thánh Gia

Số 1655-1658, 2204-2206: Gia đình Kitô giáo, một Hội Thánh tại gia

Số 2214-2233: Bổn phận của các phần tử trong gia đình

Số 534, 583, 2599: Việc tìm thấy Chúa Giêsu trong Đền thờ

Số 64, 489, 2578: Bà Anna và người con là tiên tri Samuel

Số 1, 104, 239, 1692, 1709, 2009, 2736: Bây giờ, chúng ta là con Thiên Chúa

Số 163, 1023, 1161, 2519, 2772: Chúng ta sẽ nhìn thấy Thiên Chúa “mặt giáp mặt” và nên “giống như Thiên Chúa”

Bài Ðọc I: Hc 3, 3-7. 14-17a

Bài Ðọc II: Cl 3, 12-21

Phúc Âm: Lc 2, 41-52


Số 531-534: Thánh Gia

Số 531. Phần lớn cuộc đời Người, Chúa Giêsu đã chia sẻ thân phận của đại đa số con người: một cuộc sống thường ngày không có vẻ cao trọng nào, một cuộc sống lao động tay chân, một cuộc sống suy phục Luật Thiên Chúa trong Do Thái giáo[1], một cuộc sống trong cộng đoàn. Về toàn bộ quãng đời này, chúng ta được mạc khải là Chúa Giêsu đã vâng phục cha mẹ Người[2] và “ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn, và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta” (Lc 2,52).

Số 532. Sự vâng phục của Chúa Giêsu đối với Mẹ Người và cha nuôi của Người là chu toàn cách trọn hảo điều răn thứ tư. Sự vâng phục ở trần gian là hình ảnh của sự vâng phục con thảo của Người đối với Cha trên trời của Ngươi. Việc Chúa Giêsu hằng ngày vâng phục thánh Giuse và Mẹ Maria loan báo và tham dự trước vào sự tuân phục của lời cầu nguyện trong vườn Cây Dầu: “Xin đừng cho ý con thể hiện…” (Lc 22,42). Sự vâng phục của Đức Kitô trong các hoàn cảnh thường ngày của cuộc đời ẩn dật đã khởi đầu công trình tái tạo những gì mà ông Ađam đã phá huỷ vì bất tuân[3].

Số 533. Cuộc đời ẩn dật ở Nazareth cho phép mọi người hiệp thông với Chúa Giêsu qua những lối sống thông thường nhất:

“Ngôi nhà Nazareth là mái trường nơi chúng ta bắt đầu học về cuộc đời Chúa Giêsu; đây là trường dạy Tin Mừng. Trước hết là bài học về thinh lặng. Ước gì chúng ta biết quý chuộng sự thinh lặng, vì đó là bầu khí tuyệt vời và tối cần cho tâm hồn…. Kế đến là bài học về đời sống gia đình: Ước gì Nazareth dạy chúng ta biết gia đình là gì, sự hiệp thông tình yêu của gia đình là gì, vẻ đẹp quan trọng và bừng sáng của gia đình là gì, tính chất thánh thiêng và bất khả xâm phạm của gia đình là gì…. Sau cùng là bài học về lao động. Ôi Nazareth, ngôi nhà của “Con bác thợ mộc”, chính tại đây, chúng ta muốn hiểu biết và đề cao bổn phận lao động của con người, tuy nhọc nhằn nhưng đem lại ơn cứu chuộc…. Sau hết, tại đây chúng tôi muốn chào mừng mọi người lao động trên toàn thế giới, và chỉ cho họ một mẫu mực vĩ đại, là người anh thần linh của họ”[4].

Số 534. Việc tìm thấy Chúa Giêsu trong Đền thờ[5] là biến cố duy nhất phá vỡ sự im lặng của các sách Tin Mừng về những năm tháng ẩn dật của Chúa Giêsu. Ở đây, Chúa Giêsu cho chúng ta thoáng thấy mầu nhiệm của sự tận hiến của Người cho sứ vụ xuất phát từ tư cách làm Con Thiên Chúa của Người. “Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” (Lc 2,49) Đức Maria và thánh Giuse “không hiểu” lời này, nhưng đón nhận lời ấy trong đức tin, và Đức Maria “hằng ghi nhớ những điều ấy trong lòng”, suốt những năm dài Chúa Giêsu ẩn mình trong sự thinh lặng của cuộc đời bình thường.


Số 1655-1658, 2204-2206: Gia đình Kitô giáo, một Hội Thánh tại gia

Số 1655. Đức Kitô đã muốn được sinh ra và lớn lên trong gia đình thánh của thánh Giuse và Mẹ Maria. Hội Thánh không là gì khác hơn là “gia đình của Thiên Chúa”. Ngay từ những buổi đầu, hạt nhân của Hội Thánh thường gồm những người trở thành tín hữu “cùng với cả nhà”[6]. Khi trở lại, họ ao ước cho “cả nhà mình” cũng được cứu độ[7]. Những gia đình trở thành tín hữu này, là những tiểu đảo của đời sống Kitô giáo giữa một thế giới ngoại giáo.

Số 1656. Ngày nay, giữa một thế giới thường xa lạ và thậm chí thù nghịch với đức tin, gia đình các tín hữu là hết sức quan trọng, với tính cách là những lò lửa đức tin sống động và chiếu sáng. Vì vậy, Công đồng Vaticanô II dùng một thuật ngữ cổ xưa, gọi gia đình là Hội Thánh tại gia (Ecclesia domestica)[8]. Trong tổ ấm gia đình, cha mẹ phải là “những người đầu tiên truyền dạy đức tin cho con cái mình, bằng lời nói và gương sáng, cũng như cổ võ ơn gọi riêng của từng đứa con, đặc biệt quan tâm đến ơn gọi thánh thiêng”[9].

Số 1657. Nơi đây, một cách đặc biệt, người cha, người mẹ, con cái, mọi phần tử trong gia đình, thực thi chức tư tế do Phép Rửa “trong việc lãnh nhận các bí tích, trong kinh nguyện và tạ ơn, qua chứng từ của một đời sống thánh thiện, qua sự từ bỏ, và qua lòng bác ái sống động”[10]. Bằng cách đó, gia đình là trường học đầu tiên về đời sống Kitô hữu và là “một trường học làm người cách phong phú hơn”[11]. Ở đó, người ta học được sự kiên nhẫn và niềm vui của lao động, tình yêu thương huynh đệ, sự tha thứ quảng đại, thậm chí tha thứ nhiều lần, và nhất là việc phụng thờ Thiên Chúa qua kinh nguyện và qua sự hiến dâng cuộc đời mình.

Số 1658. Cũng phải nhắc đến một số người, phải sống trong những hoàn cảnh cụ thể – và thường là ngoài ý muốn – đặc biệt gần gũi với trái tim Chúa Giêsu, họ đáng được Hội Thánh, nhất là các mục tử, yêu thương và quan tâm chăm sóc: đó là đông đảo những người sống độc thân. Nhiều người trong số này không lập gia đình được, thường vì điều kiện nghèo khó. Trong hoàn cảnh của mình, có những người sống theo tinh thần các mối phúc, phục vụ Thiên Chúa và tha nhân một cách gương mẫu. Phải mở ra cho tất cả những người này, cánh cửa của các gia đình là “Hội Thánh tại gia” và cánh cửa của gia đình lớn là Hội Thánh. “Trên đời này, không ai phải thiếu gia đình: vì Hội Thánh là nhà và là gia đình cho tất cả mọi người, nhất là cho những ai ‘đang vất vả mang gánh nặng nề’ (Mt 11,28)”[12].

Số 2204. “Gia đình Kitô giáo bày tỏ và thể hiện một cách đặc biệt sự hiệp thông trong Hội Thánh, vì lẽ đó... phải được gọi là một ‘Hội Thánh tại gia’[13]. Gia đình Kitô giáo là một cộng đoàn đức tin, đức cậy và đức mến; gia đình có một tầm quan trọng độc đáo trong Hội Thánh, như thấy rõ trong Tân Ước[14].

Số 2205. Gia đình Kitô giáo là sự hiệp thông giữa các nhân vị, là dấu vết và hình ảnh của sự hiệp thông giữa Chúa Cha và Chúa Con trong Chúa Thánh Thần. Hoạt động sinh sản và giáo dục của gia đình là phản ánh công trình tạo dựng của Chúa Cha. Gia đình được kêu gọi tham dự vào việc cầu nguyện và hy lễ của Đức Kitô. Việc cầu nguyện hằng ngày và việc đọc Lời Chúa củng cố gia đình trong đức mến. Gia đình Kitô giáo có sứ vụ loan báo Tin Mừng và truyền giáo.

Số 2206. Các tương quan trong gia đình mang lại sự đồng cảm về cảm xúc, tình cảm, và tình nghĩa, chủ yếu phát xuất từ sự tôn trọng lẫn nhau giữa các nhân vị. Gia đình là một cộng đồng ưu việt được kêu gọi để thực hiện một kế hoạch chung của đôi phối ngẫu và sự cộng tác chu đáo của cha mẹ trong việc giáo dục con cái[15].


Số 2214-2233: Bổn phận của các phần tử trong gia đình

Số 2214. Tình phụ tử thần linh là nguồn mạch của tình phụ tử nhân loại[16]; chính tình phụ tử đó đặt nền tảng cho việc tôn kính cha mẹ. Lòng tôn kính của con cái, còn nhỏ hay đã trưởng thành, đối với cha và mẹ mình[17] được nuôi dưỡng bằng tình cảm tự nhiên xuất phát từ mối dây kết hợp họ. Lòng tôn kính đó được đòi buộc bởi một điều răn của Thiên Chúa[18].

Số 2215. Lòng tôn kính cha mẹ (lòng hiếu thảo) dựa trên sự biết ơn đối với những người, bằng việc trao ban sự sống, bằng tình yêu và công lao của mình, đã sinh ra các con cái mình, giúp chúng có khả năng lớn lên về tuổi tác, về sự khôn ngoan và ân sủng. “Cha con, con hãy hết lòng tôn kính, và đừng quên ơn mẹ đã mang nặng đẻ đau. Hãy luôn nhớ công ơn dưỡng dục sinh thành, công ơn ấy, con sẽ lấy chi đáp đền cho cân xứng ?” (Hc 7,27-28).

Số 2216. Lòng hiếu thảo được bày tỏ qua sự ngoan ngoãn và vâng phục chân thành. “Hỡi con, lệnh cha con truyền, hãy lo tuân giữ; lời mẹ con dạy, chớ bỏ ngoài tai… Những lời đó sẽ hướng dẫn con lúc con tới lui, sẽ giữ gìn con khi con nằm xuống, sẽ cùng con chuyện trò khi con thức dậy” (Cn 6,20-22). “Con khôn giữ lời cha nghiêm huấn, kẻ nhạo báng chẳng nghe lời sửa dạy” (Cn 13,1).

Số 2217. Bao lâu còn chung sống với cha mẹ, con cái phải tuân giữ mọi điều cha mẹ dạy liên quan đến lợi ích bản thân hoặc của gia đình. “Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là điều đẹp lòng Chúa” (Cl 3,20)[19]. Con cái cũng phải vâng theo những lời dạy bảo hữu lý của những người giáo dục chúng, và của những người cha mẹ đã giao phó chúng cho họ chăm sóc. Nhưng nếu người con theo lương tâm, thấy vâng theo một lệnh truyền nào đó là làm điều xấu về mặt luân lý, thì không được vâng lời.

Khi trưởng thành, con cái vẫn phải tôn kính cha mẹ. Con cái phải biết đón trước những điều cha mẹ mong muốn, sẵn sàng hỏi ý kiến và đón nhận những lời khuyên bảo chính đáng của cha mẹ. Sự vâng lời của con cái đối với cha mẹ ngưng khi con cái không còn sống chung với cha mẹ nữa, nhưng lòng tôn kính thì không như thế, mà phải tồn tại luôn mãi. Thật ra, lòng tôn kính này có gốc rễ từ lòng kính sợ Thiên Chúa, là một trong các hồng ân của Chúa Thánh Thần.

Số 2218. Điều răn thứ tư còn nhắc cho những người con, khi đã trưởng thành, nhớ các trách nhiệm của họ đối với cha mẹ. Con cái phải trợ giúp cho cha mẹ về vật chất và tinh thần, bao nhiêu có thể, trong những năm tháng của tuổi già, hoặc suốt thời gian bệnh tật, cô đơn hoặc túng thiếu. Chúa Giêsu nhắc lại bổn phận biết ơn này[20].

“Chúa làm cho người cha được vẻ vang vì con cái, cho người mẹ thêm uy quyền đối với các con. Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, ai kính mẹ thì tích trữ kho báu. Ai thờ cha sẽ được vui mừng vì con cái, khi cầu nguyện, họ sẽ được lắng nghe. Ai tôn vinh cha sẽ được trường thọ, ai vâng lệnh Chúa sẽ làm cho mẹ an lòng” (Hc 3,2-6).

“Con ơi, hãy săn sóc cha con, khi người đến tuổi già, bao lâu người còn sống, chớ làm người buồn tủi. Người có lú lẫn, con cũng phải cảm thông, chớ cậy mình sung sức mà khinh dể người... Ai bỏ rơi cha mình thì khác nào kẻ lộng ngôn, ai chọc giận mẹ mình, sẽ bị Chúa nguyền rủa” (Hc 3, 12-13.16).

Số 2219. Lòng hiếu thảo củng cố sự hài hoà trong toàn bộ đời sống gia đình, ảnh hưởng cả đến các tương quan giữa anh chị em. Lòng hiếu thảo đối với cha mẹ làm rạng rỡ bầu khí gia đình. “Triều thiên của người già là đàn con cháu, vinh dự của con cái là chính người cha” (Cn 17,6). “Anh em hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau” (Ep 4,2).

Số 2220. Các Kitô hữu còn phải biết ơn đặc biệt những ai đã giúp mình lãnh nhận hồng ân đức tin, ân sủng bí tích Rửa Tội và sự sống trong Hội Thánh. Những người này có thể là cha mẹ, những phần tử khác của gia đình, ông bà, các vị mục tử, các giáo lý viên, thầy cô giáo hay bạn bè. “Tôi hồi tưởng lại lòng tin không giả hình của anh, lòng tin đã có nơi cụ Lôít, bà ngoại anh, nơi bà Êunikê, mẹ anh, cũng như chính nơi anh, tôi xác tín như vậy” (2 Tm 1,5).

Bổn phận của cha mẹ

Số 2221. Sự phong phú của tình yêu phu phụ không chỉ giới hạn ở việc sinh sản con cái, mà còn phải mở rộng đến cả việc giáo dục luân lý và đào tạo thiêng liêng cho con cái. “Nhiệm vụ của cha mẹ trong việc giáo dục hết sức quan trọng đến nỗi, nếu thiếu, chắc chắn là không gì thay thế được”[21]. Quyền và bổn phận giáo dục con cái là quyền và bổn phận hàng đầu và bất khả nhượng của cha mẹ[22].

Số 2222. Cha mẹ phải xem con cái của mình như những người con của Thiên Chúa và tôn trọng chúng như những nhân vị. Họ phải dạy cho con cái biết chu toàn Luật Thiên Chúa, bằng cách cho con cái thấy chính họ cũng vâng phục thánh ý Cha trên trời.

Số 2223. Cha mẹ là những người đầu tiên có trách nhiệm giáo dục con cái. Họ thể hiện trách nhiệm này trước hết trong việc xây dựng gia đình, trong đó, tình âu yếm, lòng tha thứ, sự tôn trọng lẫn nhau, lòng chung thủy và sự phục vụ vô vị lợi phải là những chuẩn mực. Gia đình là nơi thích hợp cho việc giáo dục các nhân đức. Việc giáo dục này đòi phải tập bỏ mình, tập phán đoán lành mạnh, tập tự chủ, là những điều kiện để có sự tự do đích thực. Cha mẹ phải dạy cho con cái biết “đặt những gì là vật chất và tự nhiên phụ thuộc những gì thuộc nội tâm và tinh thần”[23]. Cha mẹ có trách nhiệm quan trọng là phải nêu gương tốt cho con cái. Khi biết nhìn nhận những thiếu sót của mình trước mặt con cái, cha mẹ có uy tín hơn để hướng dẫn và sửa dạy con cái:

“Thương con thì cho roi cho vọt... Ai biết giáo dục con sẽ được thỏa lòng về con” (Hc 30,1-2).

“Những bậc làm cha mẹ đừng làm cho con cái tức giận, nhưng hãy thay mặt Chúa giáo dục chúng bằng cách khuyên răn và sửa dạy” (Ep 6,4).

Số 2224. Gia đình là môi trường tự nhiên để khai tâm cho nhân vị về tình liên đới và về các trách nhiệm trong cộng đồng. Cha mẹ phải dạy cho con cái biết giữ mình khỏi những nguy hiểm và những sa đọa đang đe dọa xã hội loài người.

Số 2225. Nhờ ân sủng của bí tích Hôn Phối, cha mẹ nhận trách nhiệm và đặc ân loan báo Tin Mừng cho con cái. Cha mẹ khai tâm cho con cái về các mầu nhiệm đức tin ngay từ lúc đầu đời, chính họ là “những sứ giả đầu tiên”[24] của đức tin đối với con cái mình. Lúc chúng còn thơ ấu, cha mẹ phải cho con cái hoà nhập vào đời sống của Hội Thánh. Cách sống của gia đình có thể nuôi dưỡng những tâm tình tốt đẹp, những tâm tình đó vẫn luôn là sự chuẩn bị và sự nâng đỡ đích thực cho đức tin sống động trong suốt cuộc đời.

Số 2226. Việc giáo dục đức tin cho con cái phải được cha mẹ bắt đầu ngay từ tuổi ấu thơ của chúng. Việc giáo dục này đã khởi đầu, khi các phần tử trong gia đình giúp nhau lớn lên trong đức tin, nhờ chứng từ của một đời sống Kitô hữu theo Tin Mừng. Việc dạy giáo lý trong gia đình đi trước, đồng hành và làm phong phú các hình thức khác của việc giáo dục đức tin. Cha mẹ có sứ vụ dạy con cái cầu nguyện và khám phá ra ơn gọi làm con Thiên Chúa[25]. Giáo xứ là cộng đồng Thánh Thể và là trung tâm đời sống phụng vụ của các gia đình Kitô giáo; đó là nơi tốt nhất để dạy giáo lý cho con cái và cho cha mẹ chúng.

Số 2227. Về phần mình, con cái cũng làm cho cha mẹ chúng tăng trưởng trong sự thánh thiện[26]. Mọi người và mỗi người phải biết quảng đại và luôn sẵn sàng tha thứ cho nhau khi gặp những xúc phạm, gây gỗ, bất công và bỏ rơi. Tình yêu thương lẫn nhau gợi lên điều đó. Tình yêu đối với Đức Kitô đòi buộc điều đó[27].

Số 2228. Khi con cái còn nhỏ, sự tôn trọng và yêu thương của cha mẹ được biểu lộ trước hết qua việc chăm sóc và lưu tâm nhằm dạy dỗ con cái mình, để đáp ứng những nhu cầu vật chất và tinh thần của chúng. Khi chúng lớn lên, cũng vẫn sự tôn trọng và tận tụy đó thúc đẩy cha mẹ giáo dục con cái để chúng biết sử dụng lý trí và sự tự do của mình một cách đúng đắn.

Số 2229. Cha mẹ là những người đầu tiên có trách nhiệm giáo dục con cái, nên có quyền lựa chọn cho con cái một trường học đáp ứng được những xác tín riêng của mình. Quyền này là một quyền căn bản. Cha mẹ có bổn phận, bao nhiêu có thể, lựa chọn những trường học nào giúp mình cách tốt nhất, để chu toàn nhiệm vụ của mình là nhà giáo dục Kitô giáo[28]. Công quyền có bổn phận bảo đảm quyền này của các bậc cha mẹ và tạo những điều kiện thực tế để cha mẹ thực thi quyền đó.

Số 2230. Khi đến tuổi trưởng thành, con cái có bổn phận và có quyền lựa chọn nghề nghiệp và bậc sống của mình. Con cái đảm nhận những trách nhiệm mới trong tương quan đầy tin tưởng đối với cha mẹ, sẵn sàng bàn hỏi và đón nhận các ý kiến và lời khuyên của cha mẹ. Cha mẹ phải lưu ý để không ép buộc con cái trong việc chọn nghề nghiệp hoặc chọn bạn trăm năm. Bổn phận giữ sự chừng mực này không ngăn cản họ – mà trái lại – trong việc trợ giúp con cái bằng những lời khuyên khôn ngoan, nhất là khi con cái có ý định lập gia đình.

Số 2231. Có những người không lập gia đình, để đảm nhận việc chăm sóc cha mẹ hoặc anh chị em mình, hoặc để dồn hết tâm trí vào một nghề nghiệp hay vì những động lực cao đẹp khác. Họ có thể góp phần lớn lao vào lợi ích của gia đình nhân loại.

Số 2232. Các mối liên hệ trong gia đình dù quan trọng, nhưng không phải tuyệt đối. Cũng như đứa trẻ tăng trưởng trong sự trưởng thành và sự tự lập về mặt nhân bản và thiêng liêng, thì cũng vậy, ơn gọi riêng của nó, ơn gọi đến từ Thiên Chúa, cũng được khẳng định một cách rõ ràng hơn và mạnh mẽ hơn. Cha mẹ phải tôn trọng ơn gọi này và khuyến khích con cái đáp trả bằng việc đi theo ơn gọi đó. Phải xác tín rằng ơn gọi thứ nhất của Kitô hữu là đi theo Chúa Giêsu[29]. “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai, con gái hơn Thầy thì không xứng với Thầy” (Mt 10,37).

Số 2233. Trở thành môn đệ Chúa Giêsu là chấp nhận lời mời gọi thuộc về gia đình Thiên Chúa, sống theo cách sống của Người: “Ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi” (Mt 12,50).

Cha mẹ phải đón nhận và tôn trọng, với tâm tình vui mừng và tạ ơn, ơn gọi mà Chúa dành cho một người nào đó trong số con cái mình để đi theo Người trong sự trinh khiết vì Nước Trời, trong đời sống thánh hiến hay trong thừa tác vụ tư tế.


Số 534, 583, 2599: Việc tìm thấy Chúa Giêsu trong Đền thờ

Số 534. Việc tìm thấy Chúa Giêsu trong Đền thờ[30] là biến cố duy nhất phá vỡ sự im lặng của các sách Tin Mừng về những năm tháng ẩn dật của Chúa Giêsu. Ở đây, Chúa Giêsu cho chúng ta thoáng thấy mầu nhiệm của sự tận hiến của Người cho sứ vụ xuất phát từ tư cách làm Con Thiên Chúa của Người. “Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” (Lc 2,49) Đức Maria và thánh Giuse “không hiểu” lời này, nhưng đón nhận lời ấy trong đức tin, và Đức Maria “hằng ghi nhớ những điều ấy trong lòng”, suốt những năm dài Chúa Giêsu ẩn mình trong sự thinh lặng của cuộc đời bình thường.

Số 583. Chúa Giêsu, cũng như các Tiên tri trước Người, tỏ lòng tôn kính rất sâu xa đối với Đền thờ Giêrusalem. Ở đó, Người đã được thánh Giuse và Đức Maria tiến dâng, bốn mươi ngày sau khi Người ra đời[31]. Lúc mười hai tuổi, Người quyết định ở lại trong Đen thờ để nhắc cha mẹ Người nhớ rằng Người phải lo việc của Cha Người[32]. Trong quãng đời ẩn dật của Người, Người đều lên Đền thờ mỗi năm ít nhất để mừng lễ Vượt Qua[33]; thừa tác vụ công khai của Người được đánh dấu như theo nhịp điệu những lần Người hành hương lên Giêrusalem vào những dịp lễ lớn của người Do Thái[34].

Số 2599. Con Thiên Chúa, khi trở thành Con Đức Trinh Nữ, cũng đã học cầu nguyện theo trái tim nhân loại của Người. Chúa Giêsu đã học những công thức cầu nguyện nơi thân mẫu Người là đấng hằng ghi nhớ và luôn suy niệm trong lòng về mọi điều “cao cả” của Đấng Toàn Năng[35]. Người cầu nguyện bằng những lời kinh và âm điệu của dân Người, trong Hội đường Nazareth và trong Đền Thờ. Nhưng kinh nguyện của Người còn phát xuất từ một nguồn mạch sâu kín hơn, như chính Người đã hé mở cho thấy lúc Người lên mười hai tuổi: “Con có bổn phận ở nhà của Cha con” (Lc 2,49). Ở đây, tính cách mới mẻ của việc cầu nguyện trong thời viên mãn bắt đầu được mạc khải: đó là lời cầu nguyện của Người Con, mà Chúa Cha vẫn chờ mong nơi các con cái của Ngài, cuối cùng đã được chính Người Con Một thực hiện trong nhân tính của Người cùng với con người và vì con người.


Số 64, 489, 2578: Bà Anna và người con là tiên tri Samuel

Số 64. Qua các tiên tri, Thiên Chúa đào tạo dân Ngài trong niềm hy vọng ơn cứu độ, trong sự mong đợi Giao ước mới và vĩnh cửu dành cho tất cả mọi người[36], Giao ước đó sẽ được ghi khắc trong các trái tim[37]. Các Tiên tri loan báo ơn cứu chuộc triệt để cho dân của Thiên Chúa, ơn thanh tẩy khỏi mọi bất trung của họ[38], và ơn cứu độ ấy sẽ bao gồm tất cả các dân tộc[39]. Đặc biệt những người nghèo khó và khiêm nhu của Chúa[40] sẽ ấp ủ niềm hy vọng này. Những phụ nữ thánh thiện như các bà Sara, Rêbecca, Rachel, Miryam, Đêbora, Anna, Juđitha và Esther, đã gìn giữ cho niềm hy vọng cứu độ ấy của Israel luôn sống động. Hình ảnh tinh tuyền nhất của niềm hy vọng này là Đức Maria[41].

Số 489. Suốt thời Cựu Ước, sứ vụ của Đức Maria đã được chuẩn bị bởi sứ vụ của những phụ nữ thánh thiện. Ngay từ đầu, là bà Evà: bất chấp sự bất tuân phục của mình, bà đã nhận được Lời Hứa rằng một hậu duệ của bà sẽ chiến thắng ma quỷ[42] và Lời Hứa rằng bà sẽ là mẹ của tất cả chúng sinh[43]. Do lời hứa đó, bà Sara, mặc dù đã cao niên, vẫn thụ thai một người con trai[44]. Trái với mọi niềm hy vọng nhân loại, Thiên Chúa đã chọn những gì bị coi như bất lực và yếu đuối[45] để chứng tỏ Ngài luôn trung tín với lời Ngài đã hứa: bà Anna, mẹ của tiên tri Samuel[46], bà Đêbôra, bà Ruth, bà Juđitha, bà Esther và nhiều phụ nữ khác. Đức Maria “trổi vượt giữa những người khiêm hạ và nghèo hèn của Chúa, những người hy vọng và đón nhận ơn cứu độ từ nơi Ngài với lòng tin tưởng. Cuối cùng, sau sự trông đợi lâu dài Lời Chúa đã hứa, thời gian đã đến hồi viên mãn và một Nhiệm cục mới đã bắt đầu với Đức Maria, người Con Gái Sion cao trọng nhất”[47].

Số 2578. Việc cầu nguyện của Dân Thiên Chúa sẽ được triển nở dưới bóng nhà Chúa, hòm bia Giao ước và sau này là Đền thờ. Trước hết, chính những người lãnh đạo dân – các mục tử và tiên tri – dạy cho dân cầu nguyện. Cậu bé Samuel cũng phải học nơi mẹ mình cách “đứng trước nhan Chúa”[48] và học nơi tư tế Êli để biết cách lắng nghe Lời Chúa: “Lạy Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe” (1 Sm 3,9-10). Sau này, chính Samuel cũng biết đến giá trị và tầm quan trọng của lời chuyển cầu: “Phần tôi, không đời nào tôi phạm tội nghịch cùng Chúa là thôi cầu nguyện cho anh em. Tôi sẽ cho anh em biết đường ngay nẻo chính” (1 Sm 12,23).


Số 1, 104, 239, 1692, 1709, 2009, 2736: Bây giờ, chúng ta là con Thiên Chúa

Số 1. Thiên Chúa, tự bản thể là Đấng vô cùng hoàn hảo và hạnh phúc. Theo ý định hoàn toàn do lòng nhân hậu, Ngài đã tự ý tạo dựng con người, để cho họ được thông phần sự sống hạnh phúc của Ngài. Do đó, trong mọi thời và mọi nơi, Ngài đã đến gần với con người. Thiên Chúa kêu gọi con người, giúp họ tìm kiếm Ngài, nhận biết và đem hết tâm lực yêu mến Ngài. Thiên Chúa triệu tập mọi người, vốn đã bị phân tán vì tội lỗi, để hợp nhất thành gia đình của Ngài là Hội Thánh. Để thực hiện điều này, khi thời gian tới hồi viên mãn, Ngài đã sai Con Ngài đến làm Đấng Chuộc Tội và Cứu Độ. Trong và nhờ Người Con ấy, Thiên Chúa kêu gọi loài người để trong Chúa Thánh Thần, họ trở nên dưỡng tử của Ngài và do đó, được thừa hưởng sự sống hạnh phúc của Ngài.

Số 104. Hội Thánh không ngừng tìm thấy lương thực và sức mạnh cho mình trong Thánh Kinh[49], vì nơi đó, Hội Thánh không chỉ tiếp nhận một lời phàm nhân, nhưng thực sự là Lời của Thiên Chúa[50]. “Quả thật, trong các sách thánh, Cha trên trời âu yếm đến gặp con cái và trò chuyện với họ”[51].

Số 239. Khi gọi Thiên Chúa là “Cha”, ngôn ngữ đức tin chủ yếu muốn nêu lên hai khía cạnh: Thiên Chúa là nguồn gốc thứ nhất và là Đấng uy quyền siêu việt trên hết mọi sự, đồng thời là Đấng nhân hậu và yêu thương chăm sóc mọi con cái của Ngài. Tình phụ tử này của Thiên Chúa cũng có thể được diễn tả qua hình ảnh tình mẫu tử[52]. Hình ảnh tình mẫu tử nói lên rõ hơn sự gần gũi của Thiên Chúa và sự thân mật giữa Thiên Chúa với thụ tạo của Ngài. Như vậy, ngôn ngữ đức tin múc nguồn nơi kinh nghiệm phàm nhân về cha mẹ, các vị này một cách nào đo, là những đại diện đầu tiên của Thiên Chúa đối với con người. Nhưng kinh nghiệm đó cũng cho thấy rằng, cha mẹ phàm nhân có thể phạm sai lầm và họ có thể làm méo mó dung mạo của tình phụ tử và mẫu tử. Vì vậy phải nhớ rằng, Thiên Chúa siêu việt hẳn trên sự phân biệt phái tính của phàm nhân. Ngài không là nam mà cũng không là nữ. Ngài là Thiên Chúa. Ngài cũng siêu việt hẳn trên sự làm cha làm mẹ của người phàm[53], mặc dù Ngài là nguồn gốc và là chuẩn mực[54] của chức năng làm cha làm mẹ: không ai là cha như Thiên Chúa là Cha.

Số 1692. Tín biểu tuyên xưng sự cao cả của các hồng ân Thiên Chúa đã rộng ban cho loài người trong công trình tạo dựng của Ngài và hơn nữa nhờ ơn cứu chuộc và thánh hoá. Điều đức tin tuyên xưng, được các bí tích truyền thông: nhơ các bí tích tái sinh, các Kitô hữu trở nên “con Thiên Chúa” (1 Ga 3,1)[55], “được thông phần bản tính Thiên Chúa” (2 Pr 1,4). Khi nhận biết phẩm giá mới của mình nhờ đức tin, các Kitô hữu được kêu gọi để từ nay ăn ở cho xứng với Tin Mừng của Đức Kitô[56]. Nhờ các bí tích và kinh nguyện, họ nhận được ân sủng của Đức Kitô và các hồng ân của Thần Khí của Người, làm cho họ có khả năng thực hiện điều đó.

Số 1709. Ai tin vào Đức Kitô thì trở nên con cái Thiên Chúa. Ơn được làm nghĩa tử này biến đổi người ấy, giúp họ sống theo mẫu gương Đức Kitô. Ơn này ban cho họ khả năng hành động đúng đắn và thực thi điều tốt. Được kết hợp với Đấng Cứu độ của mình, người môn đệ đạt tới sự trọn hảo của đức mến, là sự thánh thiện. Được hoàn thiện trong ân sủng, đời sống luân lý sẽ được triển nở thành sự sống vĩnh cửu trong vinh quang trên trời.

Số 2009. Nhờ ân sủng, ơn được làm nghĩa tử cho chúng ta được tham dự vào bản tính Thiên Chúa, có thể đem lại cho chúng ta một công trạng đích thực theo đức công chính nhưng không của Thiên Chúa. Đây là một quyền có được nhờ ân sủng, quyền sung mãn của tình yêu, làm cho chúng ta nên những người “đồng thừa tự” với Đức Kitô và xứng đáng được hưởng phần gia tài đã được hứa ban là đời sống vĩnh cửu[57]. Công trạng do các việc tốt lành của chúng ta là những hồng ân của lòng nhân hậu của Thiên Chúa[58]. “Ân sủng đã được ban trước, giờ đây nợ được trả.... Các hồng ân của Thiên Chúa là những công trạng của bạn”[59].

Số 2736. Chúng ta có xác tín điều này không: “Chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải” (Rm 8,26)? Chúng ta có xin Thiên Chúa “những điều thích hợp” không? Cha trên trời biết rõ điều chúng ta cần, trước khi chúng ta xin Ngài[60]; nhưng Ngài chờ đợi lời cầu xin của chúng ta bởi vì phẩm giá của con cái Ngài là ở nơi sự tự do của họ. Vì vậy phải cầu nguyện, với Thần Khí tự do của Ngài, để chúng ta có thể thật sự biết được ước muốn của Ngài[61].


Số 163, 1023, 1161, 2519, 2772: Chúng ta sẽ nhìn thấy Thiên Chúa “mặt giáp mặt” và nên “giống như Thiên Chúa”

Số 163. Đức tin làm cho chúng ta như được nếm trước niềm hoan lạc và ánh sáng của ơn hưởng kiến hồng phúc (visio beatifica), ơn đó là mục đích của cuộc lữ hành trần gian này của chúng ta. Lúc đó chúng ta sẽ nhìn thấy Thiên Chúa “mặt giáp mặt” (1 Cr 13,12), và “Ngài thế nào chúng ta sẽ thấy Ngài như vậy” (1 Ga 3,2). Vì vậy đức tin đã là khởi đầu của sự sống muôn đời:

“Khi chúng ta chiêm ngưỡng, như nhìn trong gương, ân sủng là những điều thiện hảo còn xa vời được hứa ban cho chúng ta, mà nhờ đức tin chúng ta mong chờ được hưởng, thì y như những điều đó đã có đây rồi”[62].

Số 1023. Những ai chết trong ân sủng và tình bằng hữu của Thiên Chúa, và những ai đã được thanh luyện trọn vẹn, thì được sống muôn đời với Đức Kitô. Muôn đời họ sẽ giống như Thiên Chúa, bởi vì họ thấy Ngài “như Ngài là” (1 Ga 3,2), “mặt giáp mặt” (1 Cr 13,12)[63]:

“Bằng thẩm quyền tông đồ, chúng tôi định tín rằng: Theo sự an bài chung của Thiên Chúa, từ sau cuộc Thăng thiên của Đấng Cứu Độ chúng ta là Chúa Giêsu Kitô, linh hồn của tất cả các Thánh … và của mọi Kitô hữu đã chết sau khi lãnh nhận Phép Rửa thánh thiêng của Đức Kitô, nếu họ không có gì phải thanh luyện, sau khi họ chết, … hoặc nếu lúc đó nơi họ đã hoặc sẽ có gì phải thanh luyện, mà đã thanh luyện xong sau khi chết … thì ngay cả trước khi họ đảm nhận lại thân xác của mình và trước cuộc phán xét chung, các linh hồn này đã, đang và sẽ được ở trên trời, trên Nước Trời và trên Thiên Đàng cùng với Đức Kitô, được nhập đoàn các thánh Thiên thần, và sau cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Giêsu Kitô, các linh hồn này đã và đang được xem thấy bản tính thần linh bằng sự hưởng kiến trực tiếp và giáp mặt, không qua trung gian một thụ tạo nào”[64].

Số 1161. Tất cả các dấu chỉ của việc cử hành phụng vụ đều quy hướng về Đức Kitô: kể cả các ảnh tượng của Mẹ Thiên Chúa và của các thánh. Thật vậy, các ảnh tượng này nói về Đức Kitô, Đấng được tôn vinh nơi các ngài. Các ảnh tượng này cho thấy “ngần ấy nhân chứng đức tin như đám mây bao quanh” (Dt 12,1), các ngài đang tiếp tục tham dự vào công trình cứu độ trần gian và chúng ta được liên kết với các ngài, nhất là khi cử hành các bí tích. Qua ảnh tượng của các ngài, điều được mạc khải cho đức tin của chúng ta là, con người, được tạo dựng “theo hình ảnh Thiên Chúa”, cuối cùng được biến hình nên “giống như Thiên Chúa”[65], và cả các Thiên thần, là những vị đã được quy tụ lại trong Đức Kitô:

“Theo giáo huấn của các Thánh Giáo phụ được Thiên Chúa linh hứng, và theo truyền thống của Hội Thánh Công giáo (mà chúng ta biết rằng đó là truyền thống của Chúa Thánh Thần, Đấng chắc chắn đang ngự trong Hội Thánh), chung tôi ấn định với tất cả sự chắc chắn và chính đáng rằng, cũng như hình tượng cây Thánh Giá quý trọng và ban sự sống, các ảnh tượng đáng kính và thánh thiện, hoặc được vẽ và lắp ghép, hoặc bằng những chất liệu thích hợp khác, phải được đặt trong các thánh đường của Thiên Chúa, trên các bình thánh và y phục thánh, trên các bức tường và các bức hoạ, trong nhà và trên các đường phố: đó là ảnh tượng của Chúa Giêsu Kitô, là Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ chúng ta, cũng như ảnh tượng của Đức Bà tinh tuyền, là Mẹ thánh của Thiên Chúa, ảnh tượng của các Thiên thần đáng kính, của tất cả các Thánh và những người công chính”[66].

Số 2519. Những người có “trái tim trong sạch” được hứa là sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa mặt giáp mặt và trở nên giống như Ngài[67]. Sự trong sạch của trái tim là điều kiện tiên quyết để được thấy Thiên Chúa. Ngay từ bây giờ, trái tim trong sạch giúp chúng ta biết nhìn mọi sự theo cái nhìn của Thiên Chúa, biết đón nhận tha nhân như “người lân cận”; trái tim trong sách khiến chúng ta biết nhận ra thân thể con người, của mình và của người lân cận, như đền thờ của Chúa Thánh Thần, như sự biểu lộ vẻ đẹp thần linh.

Số 2772. Từ niềm tin không lay chuyển ấy, phát xuất niềm hy vọng khơi dậy mỗi một trong bảy lời cầu xin. Những lời cầu xin này diễn tả tiếng rên siết của thời hiện tại, của thời kiên nhẫn và mong đợi này, lúc mà “chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ” (1 Ga 3,2)[68]. Thánh Lễ và kinh Lạy Cha đều hướng về ngày Chúa quang lâm, “cho tới khi Chúa đến” (1 Cr 11,26).


Bài Ðọc I: Hc 3, 3-7. 14-17a

“Ai kính sợ Chúa, thì thảo kính cha mẹ”.

Trích sách Huấn Ca.

Thiên Chúa suy tôn người cha trong con cái; quyền lợi bà mẹ, Người củng cố trên đoàn con. Ai yêu mến cha mình, thì đền bù tội lỗi; ai thảo kính mẹ mình, thì như người thu được một kho tàng. Ai thảo kính cha mình, sẽ được vui mừng trong con cái, khi cầu xin, người ấy sẽ được nhậm lời. Ai thảo kính cha mình, sẽ được sống lâu dài. Ai vâng lời cha, sẽ làm vui lòng mẹ.

Hỡi kẻ làm con, hãy gánh lấy tuổi già cha ngươi, chớ làm phiền lòng người khi người còn sống. Nếu tinh thần người sa sút, thì hãy rộng lượng, ngươi là kẻ trai tráng, chớ đành khinh dể người. Vì của dâng cho cha, sẽ không rơi vào quên lãng. Của biếu cho mẹ, sẽ đền bù tội lỗi, và xây dựng đức công chính của ngươi.

Ðó là lời Chúa.


Đáp ca: Tv 127, 1-2. 3. 4-5

Ðáp: Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người.

Xướng: 1) Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người! Công quả tay bạn làm ra bạn an hưởng, bạn được hạnh phúc và sẽ gặp may.

Ðáp: Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người.

2) Hiền thê bạn như cây nho đầy hoa trái, trong gia thất nội cung nhà bạn. Con cái bạn như những chồi non của khóm ô-liu ở chung quanh bàn ăn của bạn. Ðó là phúc lộc dành để cho người biết tôn sợ Ðức Thiên Chúa.

Ðáp: Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người.

3) Nguyện xin Thiên Chúa từ Sion chúc phúc cho bạn, để bạn nhìn thấy cảnh thịnh đạt của Giêrusalem hết mọi ngày trong đời sống của bạn, và để bạn nhìn thấy lũ cháu đàn con!

Ðáp: Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người.


Bài Ðọc II: Cl 3, 12-21

“Về đời sống gia đình trong Chúa”.

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côlôxê.

Anh em thân mến, như những người được chọn của Thiên Chúa, những người thánh thiện và được yêu thương, anh em hãy mặc lấy những tâm tình từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hoà, nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau, và hãy tha thứ cho nhau nếu người này có chuyện phải oán trách người kia. Như Chúa đã tha thứ cho anh em, anh em cũng hãy tha thứ cho nhau. Và trên hết mọi sự, anh em hãy có đức yêu thương, đó là dây ràng buộc điều toàn thiện. Nguyện cho bình an của Chúa Kitô làm chủ trong lòng anh em, sự bình an mà anh em đã được kêu gọi tới để làm nên một thân thể. Anh em hãy cảm tạ Thiên Chúa. Nguyện cho lời Chúa Kitô cư ngụ dồi dào trong anh em. Với tất cả sự khôn ngoan, anh em hãy học hỏi và nhủ bảo lẫn nhau. Hãy dùng những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca của Thần khí, cùng với lòng tri ân, để hát mừng Thiên Chúa trong lòng anh em. Và tất cả những gì anh em làm, trong lời nói cũng như trong hành động, tất cả mọi chuyện, anh em hãy làm vì danh Chúa Giêsu Kitô, nhờ Người mà tạ ơn Thiên Chúa Cha.

Hỡi các bà vợ, hãy phục tùng chồng trong Chúa cho phải phép. Hỡi những người chồng, hãy yêu thương vợ mình, đừng đay nghiến nó. Hỡi những người con, hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là đẹp lòng Chúa. Hỡi những người cha, đừng nổi cơn phẫn nộ với con cái, kẻo chúng nên nhát đảm sợ sệt.

Ðó là lời Chúa.


Alleluia: Cl 3, 15a. 16a

Alleluia, alleluia! - Nguyện cho bình an của Chúa Kitô làm chủ trong lòng anh em. Nguyện cho lời Chúa Kitô cư ngụ dồi dào trong anh em. - Alleluia.


Phúc Âm: Lc 2, 41-52

“Hai Ông Bà gặp Chúa Giêsu đang ngồi giữa các thầy tiến sĩ”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Hằng năm cha mẹ Chúa Giêsu có thói quen lên Giêrusalem để mừng lễ Vượt Qua. Lúc bấy giờ Chúa Giêsu lên mười hai tuổi, cha mẹ Người đã lên Giêrusalem, theo tục lệ mừng ngày lễ Vượt Qua. Và khi những ngày lễ đã hoàn tất, hai ông bà ra về, trẻ Giêsu đã ở lại Giêrusalem mà cha mẹ Người không hay biết. Tưởng rằng Người ở trong nhóm các khách đồng hành, hai ông bà đi được một ngày đàng, mới tìm kiếm Người trong nhóm bà con và những kẻ quen biết.

Nhưng không gặp thấy Người, nên hai ông bà trở lại Giêrusalem để tìm Người. Sau ba ngày, hai ông bà gặp thấy Người trong đền thờ đang ngồi giữa các thầy tiến sĩ, nghe và hỏi các ông. Tất cả những ai nghe Người nói đều ngạc nhiên trước sự hiểu biết và những câu Người đáp lại.

Nhìn thấy Người, hai ông bà đã ngạc nhiên, và mẹ Người bảo Người rằng: “Con ơi, sao Con làm cho chúng ta như thế? Kìa cha Con và mẹ đây đã đau khổ tìm Con”. Người thưa với hai ông bà rằng: “Mà tại sao cha mẹ tìm Con? Cha mẹ không biết rằng Con phải lo công việc của Cha Con ư?” Nhưng hai ông bà không hiểu lời Người nói.

Bấy giờ Người theo hai ông bà trở về Nadarét, và Người vâng phục hai ông bà. Maria mẹ Người ghi nhớ những việc đó trong lòng. Còn Chúa Giêsu thì tiến tới trong sự khôn ngoan, tuổi tác và ân sủng, trước mặt Thiên Chúa và người ta.

Ðó là lời Chúa.

_____

[1] X. Gl 4,4.

[2] X. Lc 2,51.

[3] X. Rm 5,19.

[4] ĐGH Phaolô VI, Homilia in templo Annuntiationis beatae Mariae Virginis in Nazareth (5-1-1964): AAS 56 (1964) 167-168.

[5] X. Lc 2,41-52.

[6] X. Cv 18,8.

[7] X. Cv 16,31; 11,14.

[8] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 11: AAS 57 (1965) 16; x. ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Familiaris consortio, 21: AAS 74 (1982) 105.

[9] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 11: AAS 57 (1965) 16.

[10] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 10: AAS 57 (1965) 15.

[11] CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 52: AAS 58 (1966) 1073.

[12] ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Familiaris consortio, 85: AAS 74 (1982) 187.

[13] ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Familiaris consortio, 21: AAS 74 (1982) 105; x. CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 11: AAS 57 (1965) 16.

[14] X. Ep 5,21 - 6,4; Cl 3,18-21; 1 Pr 3,1-7.

[15] X. CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 52: AAS 58 (1966) 1073.

[16] X. Ep 3,14.

[17] X. Cn 1,8; Tb 4,3-4.

[18] X. Xh 20,12.

[19] X. Ep 6,1.

[20] X. Mc 7,10-12.

[21] CĐ Vaticanô II, Tuyên ngôn Gravissimum educationis, 3: AAS 58 (1966) 731.

[22] X. ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Familiaris consortio, 36: AAS 74 (1982) 126.

[23] ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Centesimus annus, 36: AAS 83 (1991) 838.

[24] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 11: AAS 57 (1965) 16; x. Bộ Giáo Luật, điều 1136.

[25] X. CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 11: AAS 57 (1965) 16.

[26] X. CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 48: AAS 58 (1966) 1069.

[27] X. Mt 18,21-22; Lc 17,4.

[28] X. CĐ Vaticanô II, Tuyên ngôn Gravissimum educationis, 6: AAS 58 (1966) 733.

[29] X. Mt 16,25.

[30] X. Lc 2,41-52.

[31] X. Lc 2,22-39.

[32] X. Lc 2,46-49.

[33] X. Lc 2,41.

[34] X. Ga 2,13-14; 5,1.14; 7,1.10.14; 8,2; 10,22-23.

[35] X. Lc 1,49; 2,19.51.

[36] X. Is 2,2-4.

[37] X. Gr 31,31-34; Dt 10,16.

[38] X. Ed 36.

[39] X. Is 49,5-6; 53,11.

[40] X. Sp 2,3.

[41] X. Lc 1,38.

[42] X. St 3,l5.

[43] X. St 3,20.

[44] X. St l8,l0-l4; 2l,l-2.

[45] X. l Cr l,27.

[46] X. l Sm l.

[47] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen gentium, 55: AAS 57 (1965) 59-60.

[48] 1 Sm 1,9-18.

[49] X. CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 24: AAS 58 (1966) 829.

[50] X. 1 Tx 2,13.

[51] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 21: AAS 58 (1966) 827-828.

[52] X. Is 66,13; Tv 131,2.

[53] X. Tv 27,10.

[54] X. Ep 3,14-15; Is 49,15.

[55] X. Ga 1,12.

[56] X. Pl 1,27.

[57] X. CĐ Triđentinô, Sess. 6a, Decretum de iustificatione, c. 16: DS 1546.

[58] X. CĐ Triđentinô, Sess. 6a, Decretum de iustificatione, c. 16: DS 1548.

[59] Thánh Augustinô, Sermo 298, 4-5: SPM 1, 98-99 (PL 38, 1367).

[60] X. Mt 6,8.

[61] X. Rm 8,27.

[62] Thánh Basiliô Cả, Liber de Spiritu Sancto, 15, 36: SC 17bis, 370 (PG 32,132); x. Thánh Tôma Aquinô, Summa theologiae, II-II, q. 4, a. 1, c: Ed. Leon. 8, 44.

[63] X. Kh 22,4.

[64] ĐGH Bênêđictô XII, Hiến chế Benedictus Deus: DS 1000; x. CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 49: AAS 57 (1965) 54.

[65] X. Rm 8,29; 1 Ga 3,2.

[66] CĐ Nicêa II, Definitio de sacris imaginibus: DS 600.

[67] X. 1 Cr 13,12; 1 Ga 3,2.

[68] X. Cl 3,4.