Số 273, 300, 314: Sự siêu việt của Thiên Chúa

Số 36-43: Sự nhận biết Thiên Chúa theo Giáo huấn Giáo hội

Số 2544: Yêu mến Đức Kitô trên tất cả mọi sự và mọi người

Số 914-919, 931-932: Theo Chúa Kitô trong đời sống thánh hiến

Bài Ðọc I: Kn 9, 13-18

Bài Ðọc II: Plm 9b-10. 12-17

Phúc Âm: Lc 14, 25-33


Số 273, 300, 314: Sự siêu việt của Thiên Chúa

Số 273. Chỉ đức tin mới có thể gắn bó với những đường lối mầu nhiệm của sự toàn năng của Thiên Chúa. Đức tin này tự hào về những yếu kém của mình, để lôi kéo quyền năng của Đức Kitô xuống trên mình[1]. Gương mẫu cao cả nhất của một đức tin như thế là Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ là người đã tin rằng “đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37) và đã ngợi khen Chúa: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, Danh Ngài thật chí thánh chí tôn” (Lc 1,49).

Số 300. Thiên Chúa vô cùng cao cả hơn các công trình của Ngài[2]: “Uy phong Ngài vượt quá trời cao” (Tv 8,2). “Ngài cao cả khôn dò khôn thấu” (Tv 145,3). Nhưng bởi vì Ngài là Đấng Tạo Hóa tối cao và tự do, là căn nguyên đệ nhất của tất cả những gì hiện hữu, nên Ngài hiện diện nơi thâm sâu nhất của các thụ tạo của Ngài: “Chính ở nơi Ngài mà chúng ta sống, cử động và hiện hữu” (Cv 17,28). Theo lời thánh Augustinô: Ngài “thâm sâu hơn sự thâm sâu nhất của tôi và cao vời hơn tột đỉnh của tôi”[3].

Số 314. Chúng ta tin vững vàng rằng Thiên Chúa là Chúa của trần gian và của lịch sử. Nhưng thường chúng ta không biết được các đường lối của sự quan phòng của Ngài. Chỉ khi nào tới chung cuộc, lúc mà sự hiểu biết phiến diện của chúng ta kết thúc, khi chúng ta thấy Thiên Chúa “mặt giáp mặt” (1 Cr 13,12), chúng ta sẽ hiểu biết một cách trọn vẹn các đường lối này, mà qua đó, kể cả nhờ những thảm kịch của sự dữ và tội lỗi, Thiên Chúa dẫn đưa công trình tạo dựng của Ngài tới sự nghỉ ngơi của ngày Sabat[4] chung cuộc, vì ngày đó mà Thiên Chúa đã tạo dựng trời đất.

 

Số 36-43: Sự nhận biết Thiên Chúa theo Giáo huấn Giáo hội

Số 36. “Mẹ Hội Thánh khẳng định và dạy rằng: Từ những loài thụ tạo, nhờ ánh sáng tự nhiên của lý trí con người, con người có thể nhận biết cách chắc chắn về Thiên Chúa như là nguyên lý và cùng đích của mọi loài”[5]. Không có khả năng này, con người không thể đón nhận mạc khải của Thiên Chúa. Con người có được khả năng đó là vì đã được tạo dựng “theo hình ảnh Thiên Chúa” (St 1,27).

Số 37. Tuy nhiên, trong những hoàn cảnh lịch sử mà con người đã trải qua, con người gặp nhiều khó khăn trong việc nhận biết Thiên Chúa nếu chỉ dựa vào ánh sáng của lý trí.

“Nói một cách đơn giản, mặc dầu lý trí con người, nhờ sức lực và ánh sáng tự nhiên của mình, thật sự có thể đạt tới sự nhận biết đích thực và chắc chắn về một Thiên Chúa có ngôi vị, Đấng bảo vệ và cai quản vũ trụ bằng sự quan phòng của Ngài, cũng như nhận biết một luật tự nhiên được Đấng Tạo Hoá đặt trong tâm hồn chúng ta, nhưng có không ít những chướng ngại vật ngăn cản lý trí sử dụng khả năng bẩm sinh đó của nó một cách hữu hiệu. Vì những chân lý liên quan đến Thiên Chúa, liên quan đến mối liên hệ giữa Thiên Chúa và con người, là những điều hoàn toàn vượt quá lanh vực những sự vật hữu hình, và khi những chân lý đó được diễn ra bằng hành động và tác động đến đời sống thì chúng đòi con người phải hiến thân và từ bỏ mình. Để đạt được những chân lý như vậy, trí tuệ con người phải làm việc một cách khó khăn, một đàng vì sự thúc đẩy của các giác quan và trí tưởng tượng, đàng khác vì những dục vọng do nguyên tội gây nên. Cho nên trong những vấn đề đó, con người dễ cho là dối trá hoặc ít nhất la mơ hồ, những điều họ không muốn đó là những sự thật”[6].

Số 38. Vì lý do đó, con người cần được mạc khải của Thiên Chúa soi dẫn, không những trong những gì vượt quá trí khôn, mà cả trong “những chân lý tôn giáo và luân lý tự chúng vốn không vượt quá khả năng lý trí, để trong tình trạng hiện thời của nhân loại, mọi người có thể biết được cách dễ dàng, chắc chắn và không lẫn lộn sai lầm”[7].

Phải nói về Thiên Chúa thế nào?

Số 39. Khi bênh vực khả năng của lý trí con người trong việc nhận biết Thiên Chúa, Hội Thánh tin tưởng rằng mình có thể nói về Thiên Chúa cho mọi người và với mọi người. Niềm xác tín này là khởi điểm cho việc đối thoại của Hội Thánh với các tôn giáo khác, với triết học và khoa học, và cả với những người vô tín ngưỡng và những người vô thần.

Số 40. Vì sự hiểu biết của chúng ta về Thiên Chúa có giới hạn, nên ngôn ngữ chúng ta dùng để nói về Thiên Chúa cũng bị giới hạn. Chúng ta chỉ có thể nói về Thiên Chúa dựa vào những gì chúng ta biết về các thụ tạo và theo cách hiểu biết và suy nghĩ hạn hẹp của loài người chúng ta.

Số 41. Mọi thụ tạo đều có một nét nào đó giống Thiên Chúa, đặc biệt là con người được tạo dựng theo hình ảnh Ngài và giống như Ngài. Nhiều điều hoàn hảo của các thụ tạo (tính chân, thiện, mỹ của chúng) phản chiếu sự hoàn hảo vô biên của Thiên Chúa. Do đó, chúng ta có thể nói về Thiên Chúa từ những sự hoàn hảo nơi các thụ tạo của Ngài, “vì các thụ tạo càng lớn lao đẹp đẽ thì càng giúp nhận ra Đấng tạo thành” (Kn 13,5).

Số 42. Thiên Chúa siêu việt trên mọi thụ tạo. Vì vậy chúng ta phải không ngừng thanh luyện ngôn ngữ của chúng ta khỏi những gì là hạn hẹp, lệ thuộc vào hình ảnh, và bất toàn, để Thiên Chúa, Đấng loài người “không thể diễn tả được, không thể hiểu thấu được, không thể nhìn thấy được, không thể suy tới được”[8], không bị lẫn lộn với những kiểu trình bày phàm nhân của chúng ta. Ngôn ngữ phàm nhân của chúng ta không bao giờ có thể diễn tả đầy đủ mầu nhiệm vô tận của Thiên Chúa.

Số 43. Khi nói như vậy về Thiên Chúa, ngôn ngữ của chúng ta diễn đạt theo cách phàm nhân, nhưng thật sự đạt tới chính Thiên Chúa, dù không thể diễn tả được Ngài trong tính đơn thuần vô biên của Ngài. Chúng ta phải nhớ rằng “giữa Đấng Tạo Hoá và thụ tạo, không thể ghi nhận sự giống nhau, mà không bao hàm rằng sự khác nhau còn lớn hơn nhiều”[9]; hơn nữa, “chúng ta không thể nắm bắt được Thiên Chúa là gì, nhưng chỉ có thể biết được Ngài không phải là gì, và các hữu thể khác liên hệ với Ngài như thế nào”[10].

 

Số 2544: Yêu mến Đức Kitô trên tất cả mọi sự và mọi người

Số 2544. Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ yêu mến Người trên tất cả mọi sự và mọi người, và mời gọi họ từ bỏ “mọi sự họ có”[11] vì Người và vì Tin Mừng[12]. Trước cuộc khổ nạn của Người ít lâu, Người đã cho họ gương bà góa nghèo ở Giêrusalem, bà này, trong cảnh túng cực của mình, đã cho đi tất cả những gì bà có để sống[13]. Lệnh truyền giữ trái tim tự do đối với của cải là bắt buộc để vào được Nước Trời.

 

Số 914-919, 931-932: Theo Chúa Kitô trong đời sống thánh hiến

Số 914. “Bậc sống … được thiết lập do việc tuyên giữ các lời khuyên Phúc Âm, tuy không liên quan đến cơ cấu phẩm trật của Hội Thánh, vẫn thuộc về đời sống và sự thánh thiện của Hội Thánh một cách vững bền”[14].

Các lời khuyên Phúc Âm và đời sống thánh hiến

Số 915. Các lời khuyên Phúc Âm, vốn có nhiều, được đề ra cho tất cả các môn đệ của Đức Kitô. Sự hoàn hảo của đức mến, mà tất cả các Kitô hữu được kêu gọi tới, đối với những ai tự nguyện đảm nhận ơn gọi sống đời sống thánh hiến, bao hàm nghĩa vụ tuân giữ đức khiết tịnh trong sự độc thân vì Nước Trời, đức khó nghèo và đức vâng phục. Việc tuyên giữ các lời khuyên này, trong một bậc sống vững bền được Hội Thánh công nhận, là đặc tính của “đời sống thánh hiến” cho Thiên Chúa[15].

Số 916. Bậc sống “đời sống thánh hiến” xuất hiện như một trong những cách để sống một cách “thân mật hơn” sự thánh hiến đã bắt nguồn từ bí tích Rửa Tội và dâng hiến trọn vẹn cho Thiên Chúa[16]. Trong đời sống thánh hiến, các Kitô hữu muốn mình, dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần, bước theo Đức Kitô cách gần gũi hơn, tự hiến cho Thiên Chúa đáng mến trên hết mọi sự, và theo đuổi sự trọn hảo của đức mến để phục vụ Nước Trời, bày tỏ và loan báo trong Hội Thánh sự vinh quang của thế giới tương lai[17].

Một cây lớn có nhiều cành

Số 917. “Như trong một cây lớn mọc lên từ hạt giống do Thiên Chúa gieo trồng và đâm cành cách kỳ diệu và đa dạng trong cánh đồng của Chúa, [đã phát sinh] những hình thức khác nhau của đời sống đan tu hoặc cộng đoàn, và những gia đình khác nhau…, họ làm gia tăng sản nghiệp, vừa sinh ích cho các thành viên, vừa sinh ích cho toàn Thân The của Đức Kitô”[18].

Số 918. “Ngay từ thời sơ khai của Hội Thánh, đã có những người nam và người nữ, có ý muốn nhờ việc thực hành các lời khuyên Phúc Âm để bước theo Đức Kitô cách tự do hơn, và bắt chước Người cách khắng khít hơn, và mỗi người một cách, họ sống một cuộc đời tận hiến cho Thiên Chúa. Nhiều người trong số đó, được Chúa Thánh Thần linh hứng, hoặc đã sống cuộc đời cô tịch, hoặc đã lập ra những gia đình tu sĩ mà Hội Thánh, bằng thẩm quyền của mình, đã sẵn lòng chấp nhận và phê chuẩn”[19].

Số 919. Các Giám mục phải luôn cố gắng phân định những hồng ân mới của đời sống thánh hiến, được Chúa Thánh Thần phó thác cho Hội Thánh của Ngài; việc phê chuẩn những hình thức mới của đời sống thánh hiến được dành riêng cho Toà Thánh[20].

Số 931. Người đã được Phép Rửa dành riêng cho Thiên Chúa, nay hiến thân cho Ngài là Đấng đáng mến trên hết mọi sự, như vậy người đó cố gắng để, một cách mật thiết hơn, được thánh hiến cho việc phục vụ Thiên Chúa và dấn thân mưu ích cho Hội Thánh. Nhờ bậc sống đời sống thánh hiến, Hội Thánh biểu lộ Đức Kitô và cho thấy Chúa Thánh Thần hành động trong Hội Thánh một cách kỳ diệu như thế nào. Những ai tuyên giữ các lời khuyên Phúc Âm có sứ vụ đầu tiên là sống sự thánh hiến của mình. Vì họ “dấn thân phục vụ Hội Thánh do chính sự thánh hiến của mình, cho nên họ buộc phải hoạt động cách đặc biệt cho công cuộc truyền giáo, theo thể thức riêng của hội dòng”[21].

Số 932. Trong Hội Thánh, như là một bí tích, nghĩa là một dấu chỉ và dụng cụ của sự sống của Thiên Chúa, đời tu dòng xuất hiện như một dấu chỉ đặc biệt của mầu nhiệm Cứu Chuộc. Bước theo và bắt chước Đức Kitô “một cách gần gũi hơn”, biểu lộ sự huỷ mình ra không của Người “một cách rõ ràng hơn”, là hiện diện “một cách sâu sắc hơn”, trong trái tim Đức Kitô, với những người đương thời của mình. Những ai đi trên con đường “hẹp hơn” này khích động anh chị em bằng gương sáng của mình, và “đưa ra một bằng chứng sáng chói và nổi bật rằng, trần gian không thể được biến hình và được dâng lên cho Thiên Chúa nếu không có tinh thần của các mối phúc”[22].

 

Bài Ðọc I: Kn 9, 13-18

“Ai có thể suy tưởng được sự Thiên Chúa muốn”.

Trích sách Khôn Ngoan.

Ai trong loài người có thể biết được ý định của Thiên Chúa? Hay ai có thể suy tưởng được sự Thiên Chúa muốn? Vì những ý tưởng của loài hay chết thì mập mờ, và những dự định của chúng tôi đều không chắc chắn. Vì xác hay hư nát làm cho linh hồn ra nặng nề, và nhà bụi đất làm cho lý trí hay lo lắng nhiều điều ra nặng nề.

Chúng tôi ước lượng cách khó khăn các việc dưới đất, và khó nhọc tìm thấy những sự trước mắt. Còn những sự trên trời, nào ai khám phá ra được? Ai hiểu thấu Thánh ý của Chúa, nếu Chúa không ban sự khôn ngoan, và không sai Thánh Thần Chúa từ trời cao xuống. Như thế, mọi đường lối những kẻ ở dưới đất được sửa lại ngay thẳng, và loài người học biết những sự đẹp lòng Chúa.

Vì, lạy Chúa, những ai sống đẹp lòng Chúa từ ban đầu, thì được ơn cứu độ nhờ sự khôn ngoan.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 89, 3-4. 5-6. 12-13. 14 và 17

Ðáp: Thân lạy Chúa, Ngài là chỗ chúng con dung thân, từ đời nọ trải qua đời kia.

Xướng: 1) Thực ngàn năm ở trước thiên nhan, tựa hồ như ngày hôm qua đã khuất, như một đêm thức giấc cầm canh. Chúa khiến cho con người trở về bụi đất, Ngài phán: “Hãy trở về gốc, hỡi con người”.

Ðáp: Thân lạy Chúa, Ngài là chỗ chúng con dung thân, từ đời nọ trải qua đời kia.

2) Chúa khiến họ trôi đi, họ như kẻ mơ màng buổi sáng, họ như cây cỏ mọc xanh tươi. Ban sáng cỏ nở hoa và xanh tốt, buổi chiều nó bị xén đi và nó héo khô.

Ðáp: Thân lạy Chúa, Ngài là chỗ chúng con dung thân, từ đời nọ trải qua đời kia.

3) Xin dạy chúng con biết đếm ngày giờ, để chúng con luyện được lòng trí khôn ngoan. Lạy Chúa, xin trở lại, chớ còn để tới bao giờ? xin tỏ lòng xót thương tôi tớ của Ngài.

Ðáp: Thân lạy Chúa, Ngài là chỗ chúng con dung thân, từ đời nọ trải qua đời kia.

4) Xin cho chúng con sớm được no phỉ ân tình của Chúa, để chúng con mừng rỡ hân hoan trọn đời sống chúng con. Xin cho chúng con được hưởng ân sủng Chúa là Thiên Chúa chúng con, sự nghiệp tay chúng con làm ra, xin Ngài củng cố, xin Ngài củng cố sự nghiệp tay chúng con làm ra.

Ðáp: Thân lạy Chúa, Ngài là chỗ chúng con dung thân, từ đời nọ trải qua đời kia.

 

Bài Ðọc II: Plm 9b-10. 12-17

“Con hãy tiếp nhận nó không phải như một người nô lệ, nhưng như một người anh em rất thân mến”.

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gởi cho Philêmon.

Con thân mến, Phaolô già nua, và hiện đang bị cầm tù vì Ðức Giêsu Kitô, cha nài xin con cho Ônêsimô, đứa con cha đã sinh ra trong xiềng xích.

Cha trao nó lại cho con. Phần con, con hãy đón nhận nó như ruột thịt của cha. Cha cũng muốn giữ nó lại để thay con mà giúp đỡ cha trong lúc cha bị xiềng xích vì Tin Mừng. Nhưng vì chưa biết ý con, nên cha không muốn làm gì, để việc nghĩa con làm là một việc tự ý, chớ không vì ép buộc. Vì biết đâu nó xa con một thời gian để rồi con sẽ tiếp nhận muôn đời, không phải như một người nô lệ, nhưng thay vì nô lệ, thì như một người anh em rất thân mến, đặc biệt đối với cha, huống chi là đối với con, về phần xác cũng như trong Chúa. Vậy nếu con nhận cha là bạn hữu, thì xin con hãy đón nhận nó như chính mình cha vậy.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Ga 10,27

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: “Con chiên Ta thì nghe Ta; Ta biết chúng và chúng theo Ta”. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 14, 25-33

“Ai không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, có nhiều đám đông cùng đi với Chúa Giêsu, Người ngoảnh lại bảo họ rằng: “Nếu ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta. Còn ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta.

“Có ai trong các ngươi muốn xây tháp mà trước tiên không ngồi tính toán phí tổn cần thiết, xem có đủ để hoàn tất không? Kẻo đặt móng rồi mà không thể hoàn tất, thì mọi người xem thấy sẽ chế giễu người đó rằng: ‘Tên này khởi sự xây cất mà không hoàn thành nổi’.

“Hoặc có vua nào sắp đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên không ngồi suy nghĩ xem mình có thể đem mười ngàn quân ra đương đầu với đối phương dẫn hai mươi ngàn quân tiến đánh mình chăng? Bằng chẳng nổi, thì khi đối phương còn ở xa, vua ấy sai một phái đoàn đến cầu hoà. Cũng thế, bất kỳ ai trong các ngươi không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta”.

Ðó là lời Chúa.

_________

[1] X. 2 Cr 12,9; Pl 4,13.

[2] X. Hc 43,30.

[3] Thánh Augustinô, Confessiones, 3, 6, 11: CCL 27, 33 (PL 32, 688).

[4] X. St 2,2.

[5] CĐ Vaticanô I, Hiến chế tín lý Dei Filius, c. 2: DS 3004; X. Ibid., De Revelatione, canon 2: DS 3026; CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 6: AAS 58 (1966) 819.

[6] ĐGH Piô XII, Thông điệp Humani generis: DS 3875.

[7] Ibid.: DS 3876. X. CĐ Vaticanô I, Hiến chế tín lý Dei Filius, c. 2: DS 3005; CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Dei Verbum, 6: AAS 58 (1966) 819-820; Thánh Tôma Aquinô, Summa theologiae, I, q. 1, a. 1, c: Ed. Leon. 4, 6.

[8] Phụng vụ Byzantin. Anaphora sancti Ioannis Chrysostomi: Liturgies Eastern and Western, ed. F.E. Brightman (Oxford 1896) p. 384 (PG 63, 915).

[9] CĐ Latêranô IV, Cap. 2. De errore abbatis Ioachim: DS 806.

[10] Thánh Tôma Aquinô, Summa contra gentiles, 1, 30: Ed. Leon. 13, 92.

[11] X. Lc 14,33.

[12] X. Mc 8,35.

[13] X. Lc 21,4.

[14] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 44: AAS 57 (1965) 51.

[15] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 42-43: AAS 57 (1965) 47-50; Id., Sắc lệnh Perfectae caritatis, 1: AAS 58 (1966) 702-703.

[16] X. CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Perfectae caritatis, 5: AAS 58 (1966) 704-705.

[17] X. Bộ Giáo Luật, điều 573.

[18] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 43: AAS 57 (1965) 49.

[19] CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Perfectae caritatis, 1: AAS 58 (1966) 702.

[20] X. Bộ Giáo Luật, điều 605.

[21] Bộ Giáo Luật, điều 783; x. ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris missio, 69: AAS 83 (1991) 317-318.

[22] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 31: AAS 57 (1965) 37.