|
Số 668-677, 769: Cuộc thử thách cuối cùng và sự trở lại của Đức Kitô trong vinh quang Số 451, 671, 1130, 1403, 2817: “Lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến” |
Số 668-677, 769: Cuộc thử thách cuối cùng và sự trở lại của Đức Kitô trong vinh quang
Số 668. “Đức Kitô đã chết và sống lại chính là để làm Chúa kẻ sống cũng như kẻ chết” (Rm 14,9). Việc Đức Kitô lên trời cho thấy nhân tính của Người cũng được tham dự vào quyền năng và uy quyền của chính Thiên Chúa. Chúa Giêsu Kitô là Chúa: Người nắm mọi quyền bính trên trời dưới đất. Người “vượt trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được” vì Chúa Cha “đã đặt tất cả dưới chân Người” (Ep 1,20-22). Đức Kitô là Chúa của tất cả vũ trụ[1] và của lịch sử. Nơi Người, lịch sử của con người, kể cả toàn bộ công trình tạo dựng, tìm gặp được “nơi quy tụ” của mình[2], tột đỉnh siêu việt của mình.
Số 669. Là Chúa, Đức Kitô cũng là Đầu Hội Thánh, Thân Thể của Người[3]. Được đưa lên trời và được tôn vinh sau khi chu toàn sứ vụ, Đức Kitô vẫn hiện diện nơi trần thế trong Hội Thánh của Người. Công trình cứu chuộc là nguồn mạch của quyền bính mà Đức Kitô thực thi trong Hội Thánh bằng sức mạnh của Chúa Thánh Thần[4]. “Nước của Đức Kitô đã hiện diện một cách mầu nhiệm”[5] trong Hội Thánh, là “hạt giống và điểm khởi đầu của Nước Trời nơi trần thế”[6].
Số 670. Khởi từ cuộc Thăng Thiên, kế hoạch của Thiên Chúa bước vào giai đoạn hoàn thành. Chúng ta đang sống trong “giờ cuối cùng” (1 Ga 2,18)[7]. “Quả vậy, những thời đại cuối cùng đã đến với chúng ta và sự canh tân trần gian đã được thiết lập một cách không thể đảo ngược, và trong thời đại này sự canh tân đó đã được tiền dự một cách hiện thực nào đó: thật vậy, Hội Thánh nơi trần gian được ghi dấu bằng sự thánh thiện thật, tuy còn bất toàn”[8]. Nước Đức Kitô đã biểu lộ sự hiện diện của mình nhờ những dấu chỉ kỳ diệu[9] đi kèm theo việc loan báo Nước đó nhờ Hội Thánh[10].
... cho tới khi mọi sự quy phục Người
Số 671. Tuy nhiên, Nước Đức Kitô, đang hiện diện trong Hội Thánh của Người, chưa phải là tuyệt đối với “quyền năng và vinh quang” (Lc 21,27)[11] do việc Vua ngự đến trần gian. Nước này còn bị các thế lực sự dữ tấn công[12], mặc dù chúng đã bị đánh bại tận gốc rễ do cuộc Vượt Qua của Đức Kitô. Cho tới khi mọi sự quy phục Người[13], “cho tới khi có trời mới đất mới, nơi công lý ngự trị, Hội Thánh lữ hành, trong các bí tích và các định chế của mình, vốn là những điều thuộc thời đại nay, vẫn mang hình dáng của thời đại chóng qua này và chính Hội Thánh đang sống giữa các thụ tạo còn đang rên siết và quằn quại như sắp sinh nở và mong đợi cuộc tỏ hiện của các con cái Thiên Chúa”[14]. Vì vậy, các Kitô hữu cầu nguyện, nhất là trong bí tích Thánh Thể[15], để Đức Kitô mau lại đến[16], bằng cách thưa với Người: “Lạy Chúa, xin ngự đến !” (Kh 22,20)[17].
Số 672. Đức Kitô, trước cuộc Thăng Thiên của Người, đã khẳng định rằng chưa đến giờ Người thiết lập Nước của Đấng Messia một cách vinh hiển mà Israel mong đợi[18], Nước đó phải mang lại cho mọi người, theo lời các tiên tri[19], một trật tự vĩnh viễn của công lý, của tình yêu, và của hoà bình. Thời gian hiện tại, theo Chúa, là thời gian của Thần Khí và của việc làm chứng[20], nhưng cũng là thời gian được ghi dấu bằng nỗi khó khăn hiện tại[21] và bằng sự thử thách của sự dữ[22], thời gian này không buông tha Hội Thánh[23], và khởi đầu cuộc chiến của những ngày sau cùng[24]. Đây là thời gian của sự mong đợi và tỉnh thức[25].
Việc Ngự đến vinh hiển của Đức Kitô, niềm hy vọng của Israel
Số 673. Sau cuộc Thăng Thiên, việc Ngự đến trong vinh quang của Đức Kitô luôn gần kề[26], mặc dù chúng ta “không biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt” (Cv 1,7)[27]. Biến cố cánh chung này có thể xảy ra bất cứ lúc nào[28], mặc dù chính biến cố đó cũng như cuộc thử thách cuối cùng phải xảy ra trước biến cố đó, còn được “trì hoãn”[29].
Số 674. Việc Ngự đến của Đấng Messia vinh hiển vào bất cứ lúc nào trong lịch sử tùy thuộc[30] vào việc Người được nhận biết bởi “toàn thể Israel”[31] mà một phần dân ấy còn cứng lòng[32] “không tin” (Rm 11,20) vào Chúa Giêsu. Thánh Phêrô nói với người Do Thái ở Giêrusalem sau lễ Ngũ Tuần: “Anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa, để Ngài xóa bỏ tội lỗi cho anh em. Như vậy, thời kỳ an lạc mà Chúa ban cho anh em sẽ đến, khi Ngài sai Đấng Kitô Ngài đã danh cho anh em, là Chúa Giêsu. Chúa Giêsu còn phải được giữ lại trên trời, cho đến thời phục hồi vạn vật, thời mà Thiên Chúa đã dùng miệng các vị thánh ngôn sứ của Ngài mà loan báo tự ngàn xưa” (Cv 3,19-21). Thánh Phaolô cũng nhắc lại điều đó: “Thật vậy, nếu vì họ bị gạt ra một bên mà thế giới được hòa giải với Thiên Chúa, thì việc họ được thâu nhận lại là gì, nếu không phải là từ cõi chết bước vào cõi sống?” (Rm 11,15). Việc gia nhập của đông đủ người Do Thái[33] vào ơn cứu độ của Đấng Messia, sau việc gia nhập đông đủ của các dân ngoại[34], sẽ làm cho dân Chúa đạt “tới tầm vóc viên mãn của Đức Kitô” (Ep 4,13), trong đó, “Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài” (1 Cr 15,28).
Cuộc thử thách cuối cùng của Hội Thánh
Số 675. Trước cuộc Ngự đến của Đức Kitô, Hội Thánh phải trải qua một cuộc thử thách cuối cùng, làm lung lạc đức tin của nhiều tín hữu[35]. Cuộc bách hại, luôn đi theo Hội Thánh trên đường lữ thứ trần gian[36], sẽ làm lộ rõ “mầu nhiệm sự dữ” dưới hình thức một sự đánh lừa về tôn giáo, có vẻ như mang đến cho người ta một giải pháp về các vấn đề của họ với giá phải trả là sự chối bỏ chân lý. Sự đánh lừa về tôn giáo ở mức cao nhất là của tên Phản Kitô, nghĩa là, của một chủ nghĩa Messia giả hiệu, trong đó con người tự tôn vinh chính mình thay vì tôn vinh Thiên Chúa và Đấng Messia của Ngài đã đến trong xác phàm[37].
Số 676. Sự đánh lừa của tên Phản Kitô đã được phác hoạ trên trần gian mỗi khi người ta cho rằng mình thực hiện được trong lịch sử niềm hy vọng về Đấng Messia, một niềm hy vọng vốn chỉ có thể được hoàn thành vượt quá giới hạn lịch sử, nhờ cuộc phán xét cánh chung: Hội Thánh đã bác bỏ sự giả mạo này về Vương quốc tương lai, và cả dưới một hình thức giảm nhẹ của sự giả mạo đó, có tên là thuyết ngàn năm (millenarismus)[38], nhất là dưới một hình thức chính trị của một chủ thuyết Messia đã bị tục hoá (messianismus saecularizatus), “đồi bại tự bản chất”[39].
Số 677. Hội Thánh chỉ tiến vào vinh quang Nước Trời sau cuộc Vượt Qua cuối cùng này, trong đó Hội Thánh đi theo Chúa của mình trong sự chết và sự sống lại của Người[40]. Vì vậy Nước Trời sẽ không được thực hiện bằng một chiến thắng của Hội Thánh trong lịch sử[41], theo một đà tiến từ dưới đi lên nào đó, nhưng bằng sự chiến thắng của Thiên Chúa trên cuộc tấn công cuối cùng của sự dữ[42], sự chiến thắng đó làm cho Tân nương của Ngài từ trời xuống[43]. Chiến thắng của Thiên Chúa trên sự nổi loạn của sự dữ sẽ mang hình thức cuộc Phán Xét cuối cùng[44], sau cuộc đảo lộn cuối cùng khắp vũ trụ của trần gian đang qua đi[45].
Hội Thánh – được hoàn tất trong vinh quang
Số 769. “Hội Thánh … sẽ chỉ được hoàn tất trong vinh quang thiên quốc”[46], trong cuộc Ngự đến vinh hiển của Đức Kitô. Cho đến ngày đó, “Hội Thánh vẫn tiến bước trên đường lữ thứ giữa những cuộc bách hại của thế gian và những ơn an ủi của Thiên Chúa”[47]. Nơi trần thế, Hội Thánh biết mình đang ở chốn lưu đày, đang trên đường lữ thứ xa cách Chúa[48], Hội Thánh khao khát cuộc ngự đến trọn vẹn của Nước Thiên Chúa, khao khát “giờ sẽ được kết hợp cùng Vua của mình trong vinh quang”[49]. Sự hoàn tất của Hội Thánh, và qua đó, sự hoàn tất của trần gian trong vinh quang sẽ chỉ xảy ra sau nhiều thử thách lớn lao. Chỉ khi đó “mọi người công chính từ ông Ađam, ‘từ ông Abel người công chính cho đến người được tuyển chọn cuối cùng’ sẽ được quy tụ trong Hội Thánh phổ quát bên cạnh Chúa Cha”[50].
Số 451, 671, 1130, 1403, 2817: “Lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến”
Số 451. Kinh nguyện Kitô giáo được ghi dấu bằng tước hiệu “Chúa”, dù là lời mời gọi cầu nguyện “Chúa ở cùng anh chị em”, dù là câu kết thúc lời nguyện: “Nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con”, hay cả trong tiếng kêu đầy tin tưởng và hy vọng “Maran atha” (“Chúa đến!”) hoặc “Marana tha” (“Lạy Chúa, xin ngự đến!”) (l Cr l6,22). “Amen. Lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến” (Kh 22,20).
... cho tới khi mọi sự quy phục Người
Số 671. Tuy nhiên, Nước Đức Kitô, đang hiện diện trong Hội Thánh của Người, chưa phải là tuyệt đối với “quyền năng và vinh quang” (Lc 21,27)[51] do việc Vua ngự đến trần gian. Nước này còn bị các thế lực sự dữ tấn công[52], mặc dù chúng đã bị đánh bại tận gốc rễ do cuộc Vượt Qua của Đức Kitô. Cho tới khi mọi sự quy phục Người[53], “cho tới khi có trời mới đất mới, nơi công lý ngự trị, Hội Thánh lữ hành, trong các bí tích và các định chế của mình, vốn là những điều thuộc thời đại nay, vẫn mang hình dáng của thời đại chóng qua này và chính Hội Thánh đang sống giữa các thụ tạo còn đang rên siết và quằn quại như sắp sinh nở và mong đợi cuộc tỏ hiện của các con cái Thiên Chúa”[54]. Vì vậy, các Kitô hữu cầu nguyện, nhất là trong bí tích Thánh Thể[55], để Đức Kitô mau lại đến[56], bằng cách thưa với Người: “Lạy Chúa, xin ngự đến !” (Kh 22,20)[57].
Các bí tích của đời sống vĩnh cửu
Số 1130. Hội Thánh cử hành mầu nhiệm của Chúa mình “cho tới khi Chúa đến” (1 Cr 11,26), lúc “Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài” (1 Cr 15,28). Ngay từ thời các Tông Đồ, phụng vụ đã được hướng đến cùng đích của mình qua lời rên xiết của Thần Khí trong Hội Thánh: “Marana tha! – Lạy Chúa, xin ngự đến!” (1 Cr 16,22). Như thế, Phụng vụ chia sẻ nỗi khát khao của Chúa Giêsu: “Thầy những khát khao mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với anh em... cho đến khi lễ này được nên trọn vẹn trong Nước Thiên Chúa” (Lc 22, 15.16). Trong các bí tích của Đức Kitô, Hội Thánh đã nhận được bảo chứng gia tài của mình, đã được dự phần vào đời sống vĩnh cửu, đang khi “trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Kitô Giêsu là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng Cứu Độ chúng ta, xuất hiện vinh quang” (Tt 2,13). “Thần Khí và Tân Nương nói: Xin Ngài ngự đến... Lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến” (Kh 22, 17.20).
Thánh Tôma tóm lược các chiều kích khác nhau của dấu chỉ bí tích như sau: “Bí tích là dấu chỉ nhắc nhớ điều đã xẩy ra trước nó, tức là cuộc khổ nạn của Đức Kitô; là dấu chỉ cho thấy điều được thực hiện nơi chúng ta nhờ cuộc khổ nạn của Đức Kitô, tức là ân sủng; là dấu chỉ tiên báo, tức là báo trước vinh quang tương lai”[58].
Số 1403. Trong bữa Tiệc ly, chính Chúa hướng các môn đệ Người đến sự hoàn tất lễ Vượt Qua trong Nước Thiên Chúa: “Thầy bảo cho anh em biết: từ nay, Thầy không còn uống thứ sản phẩm này của cây nho, cho đến ngày Thầy cùng anh em uống thứ rượu mới trong Nước của Cha Thầy” (Mt 26,29)[59]. Mỗi lần cử hành bí tích Thánh Thể, Hội Thánh nhớ lại lời hứa này và hướng trông “Đấng đang đến” (Kh 1,4). Trong kinh nguyện, Hội Thánh kêu cầu Người ngự đến: “Marana tha” (1 Cr 16,22), “Lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến” (Kh 22,20), “Ước gì ân sủng của Ngài đến và trần gian này qua đi”[60].
Số 2817. Lời cầu xin này là lời “Marana tha”, là tiếng kêu cầu của Thần Khí và Hiền Thê: “Lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến”:
“Giả như lời cầu xin này không đòi buộc phải van xin Nước Chúa mau đến đi nữa, thì chúng ta cũng bị thúc giục kêu gào điều đó vì muốn ôm lấy niềm hy vọng của chúng ta. Linh hồn các vị tử đạo nằm dưới bàn thờ lớn tiếng kêu lên Chúa: ‘Lạy Chúa, cho đến bao giờ Ngài còn trì hoãn, không xét xử và không bắt những người sống trên mặt đất phải đền nợ máu chúng con?’ (Kh 6,10). Chắc chắn các ngài sẽ được xét xử công bằng vào ngày tận thế. Lạy Chúa, nguyện Nước Chúa mau đến”[61].
Số 2729-2733: Tâm hồn khiêm tốn và tỉnh thức
Số 2729. Khó khăn thường xuyên khi chúng ta cầu nguyện là sự chia trí. Có thể chia trí về các lời đọc và ý nghĩa của chúng, trong khẩu nguyện; sâu xa hơn, về Đấng chúng ta đang thưa chuyện, trong khẩu nguyện (cầu nguyện trong phụng vụ hay riêng tư), trong suy niệm và cầu nguyện chiêm niệm. Bận tâm với việc xua đuổi những sự chia trí này là đã mắc bẫy của chúng, trong khi chúng ta chỉ cần trở về với trái tim mình là đủ: sự chia trí bộc lộ cho thấy điều mình đang quyến luyến; khiêm tốn ý thức được điều đó trước mặt Chúa, sẽ nhắc nhở chúng ta phải ưu tiên yêu mến Ngài, kiên quyết dâng tâm hồn cho Ngài để xin Ngài thanh tẩy. Cuộc chiến đấu là ở chỗ đó: chúng ta chọn Chúa để phục vụ Ngài[62].
Số 2730. Về mặt tích cực, cuộc chiến đấu chống lại “cái tôi” thích chiếm hữu và thống trị của chúng ta chính là sự tỉnh thức, tức là sự tiết độ của tâm hồn. Khi kêu gọi sự tỉnh thức, Chúa Giêsu luôn quy chiếu về việc Người đến vào ngày cuối cùng và từng ngày, vào “Hôm nay”. Chàng Rể đến vào nửa đêm, nên ta không được để cho ánh sáng đức tin tàn lụi: “Nghĩ về Ngài lòng con tự nhủ: hãy tìm kiếm Thánh Nhan” (Tv 27,8).
Số 2731. Một khó khăn khác, đặc biệt đối với những người thành tâm muốn cầu nguyện, là sự khô khan. Nó là một phần của việc cầu nguyện, khi tâm hồn bị tước đoạt, không còn hứng thú đối với những ý tưởng, những hoài niệm và những tâm tình, kể cả về mặt thiêng liêng. Đây chính là lúc phải có đức tin tinh tuyền, một đức tin trung thành ở lại với Chúa Giêsu “trong hấp hối và trong huyệt mộ”. “Hạt lúa gieo vào lòng đất, … nếu chết đi nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24). Nếu sự khô khan là do thiếu gốc rễ, bởi vì lời rơi trên sỏi đá, thì cuộc chiến đấu liên quan đến việc hối cải[63].
Trước những cám dỗ trong việc cầu nguyện
Số 2732. Cơn cám dỗ thường gặp nhất, kín đáo nhất, là chúng ta thiếu đức tin. Đây không phải là việc tuyên bố rõ ràng không tin Chúa, cho bằng một chọn lựa ưu tiên trong thực tế. Khi chúng ta khởi sự cầu nguyện, hàng ngàn công việc và lo toan, được coi là cấp bách, xuất hiện như những điều đòi được ưu tiên: một lần nữa, đây là lúc chúng ta thấy rõ lòng mình và tình cảm ưu tiên của nó. Có khi chúng ta quay về với Chúa như chỗ cậy dựa cuối cùng, nhưng liệu chúng ta có thật sự tin điều đó không? Có khi chúng ta nhận Chúa làm đồng minh, nhưng lòng vẫn còn tự cao tự đại. Trong mọi trường hợp, sự thiếu đức tin của chúng ta cho thấy rằng chúng ta chưa có một tâm hồn khiêm tốn: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5).
Số 2733. Một cám dỗ khác do sự tự cao tự đại mở lối, là sự nguội lạnh. Các linh phụ coi đây là một hình thức suy nhược tinh thần vì nới lỏng khổ chế, giảm thiểu canh thức, chểnh mảng tâm hồn. “Tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn” (Mt 26,41). Càng trèo cao càng té nặng. Sự nản chí, phiền muộn, là mặt trái của sự tự cao tự đại. Còn người khiêm tốn không lạ gì về sự khốn khổ của mình, chính điều đó khiến họ càng phó thác hơn, và kiên trì đứng vững.
Bài Ðọc I: Is 2, 1-5
"Thiên Chúa quy tụ các dân tộc trong nước Người, để hưởng bình an đời đời".
Trích sách Tiên tri Isaia.
Ðiềm Isaia con trai của Amos đã thấy về Giuđa và Giêrusalem. Ðiềm sẽ xảy ra trong những ngày sau hết, là núi của nhà Chúa được xây đắp trên đỉnh các núi, và núi ấy sẽ cao hơn các đồi, và các dân nước sẽ đổ về đó.
Nhiều dân tộc sẽ đến và nói rằng: "Hãy đến, chúng ta hãy lên núi Chúa và lên nhà Thiên Chúa của Giacóp. Người sẽ dạy chúng ta đường lối của Người, và chúng ta sẽ đi theo ý định của Người"; vì luật pháp sẽ ban ra từ Sion, và lời Chúa sẽ phát ra từ Giêrusalem.
Người sẽ xét xử các dân ngoại và khiển trách nhiều dân tộc. Họ sẽ lấy gươm mà rèn nên lưỡi cày, lấy giáo rèn nên lưỡi liềm. Nước này không còn tuốt gươm ra đánh nước kia nữa; người ta cũng sẽ không còn thao luyện để chiến đấu nữa. Hỡi nhà Giacóp, hãy đến, và chúng ta hãy bước đi trong ánh sáng của Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp: Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: "Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa".
Xướng: 1) Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: "Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa". Hỡi Giêrusalem, chân chúng tôi đang đứng nơi cửa thành rồi.
Ðáp: Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: "Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa".
2) Giêrusalem được kiến thiết như thành trì, được cấu tạo kiên cố trong toàn thể. Nơi đây các bộ lạc, các bộ lạc của Chúa tiến lên.
Ðáp: Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: "Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa".
3) Theo luật pháp của Israel, để ngợi khen danh Chúa. Tại đây đã đặt ngai toà thẩm phán, ngai toà của nhà Ðavít.
Ðáp: Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: "Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa".
4) Hãy nguyện cầu cho Giêrusalem được thanh bình, nguyện cho những kẻ yêu mến ngươi được an ninh. Nguyện cho trong thành luỹ được bình an, và trong các lâu đài của ngươi yên ổn.
Ðáp: Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: "Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa".
5) Vì anh em và bằng hữu của tôi, tôi nguyện chúc: bình an cho ngươi! Vì nhà Chúa là Thiên Chúa chúng ta, tôi khẩn cầu cho ngươi những điều thiện hảo.
Ðáp: Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: "Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa".
Bài Ðọc II: Rm 13, 11-14
"Phần rỗi chúng ta gần đến".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, biết rằng thời này là lúc chúng ta phải thức dậy. Vì giờ đây, phần rỗi chúng ta gần đến, hơn lúc chúng ta mới tin đạo. Ðêm sắp tàn, ngày gần đến. Chúng ta hãy từ bỏ những hành vi ám muội và mang khí giới ánh sáng. Chúng ta hãy đi đứng đàng hoàng như giữa ban ngày, không ăn uống say sưa, không chơi bời dâm đãng, không tranh chấp ganh tị. Nhưng hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, và chớ lo lắng thoả mãn những dục vọng xác thịt.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Tv 84, 8
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin tỏ lòng từ bi Chúa cho chúng con, và ban ơn cứu rỗi cho chúng con. - Alleluia.
Phúa Âm: Mt 24, 37-44
"Hãy tỉnh thức để sẵn sàng".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Trong thời ông Noe xảy ra thế nào, thì lúc Con Người đến cũng như vậy. Cũng như trong những ngày trước đại hồng thuỷ, người ta ăn uống, dựng vợ gả chồng, mãi đến chính ngày ông Noe vào tàu mà người ta cũng không ngờ, thình lình đại hồng thuỷ đến và cuốn đi tất cả, thì khi Con Người đến, cũng sẽ xảy ra như vậy. Khi ấy sẽ có hai người đàn ông đang ở ngoài đồng, một người được tiếp nhận, một người bị bỏ rơi. Và có hai người đàn bà đang xay bột, một người được tiếp nhận, còn người kia bị bỏ rơi. Vậy hãy tỉnh thức, vì không biết giờ nào Chúa các con sẽ đến.
"Nhưng các con phải biết điều này, là nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông ta sẽ canh phòng, không để cho đào ngạch khoét vách nhà mình. Vậy các con cũng phải sẵn sàng, vì lúc các con không ngờ, Con Người sẽ đến".
Ðó là lời Chúa.
_____________
[1] X. Ep 4,10; 1 Cr 15,24.27-28.
[2] X. Ep 1,10.
[3] X. Ep 1,22.
[4] X. Ep 4,11-13.
[5] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 3: AAS 57 (1965) 6.
[6] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 5: AAS 57 (1965) 8.
[7] X. 1 Pr 4,7.
[8] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 48: AAS 57 (1965) 53.
[9] X. Mc 16,17-18.
[10] X. Mc 16,20.
[11] X. Mt 25,31.
[12] X. 2 Tx 2,7.
[13] X. 1 Cr 15,28.
[14] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 48: AAS 57 (1965) 53.
[15] X. 1 Cr 11,26.
[16] X. 2 Pr 3,11-12.
[17] X. 1 Cr 16,22; Kh 22,17.
[18] X. Cv 1,6-7.
[19] X. Is 11,1-9.
[20] X. Cv 1,8.
[21] X. 1 Cr 7,26.
[22] X. Ep 5,16.
[23] X. 1 Pr 4,17.
[24] X. 1 Ga 2,18; 4,3; 1 Tm 4,1.
[25] X. Mt 25,1-13; Mc 13,33-37.
[26] X. Kh 22,20.
[27] X. Mc 13,32.
[28] X. Mt 24,44; 1 Tx 5,2.
[29] X. 2 Tx 2,3-12.
[30] X. Rm 11,31.
[31] X. Rm 11,26; Mt 23,39.
[32] X. Rm 11,25.
[33] X. Rm 11,12.
[34] X. Rm 11,25; Lc 21,24.
[35] X. Lc 18,8; Mt 24,12.
[36] X. Lc 21,12; Ga 15,19-20.
[37] X. 2 Tx 2,4-12; 1 Tx 5,2-3; 2 Ga 7; 1 Ga 2,18.22.
[38] X. Sanctum Officium, Decretum de millenarismo (19-7-1944): DS 3839.
[39] X. ĐGH Piô XI, Thông điệp Divini Redemptoris (19-3-1937): AAS 29. (1937) 65-106; CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 20-21: AAS 58 (1966) 1040-1042.
[40] X. Kh 19,1-9.
[41] X. Kh 13,8.
[42] X. Kh 20,7-10.
[43] X. Kh 21,2-4.
[44] X. Kh 20,12.
[45] X. 2 Pr 3,12-13.
[46] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 48: AAS 57 (1965) 53.
[47] Thánh Augustinô, De civitate Dei, 18, 51: CSEL 40/2, 354 (PL 41, 614); x. CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 8: AAS 57 (1965) 12.
[48] X. 2 Cr 5,6; CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 6: AAS 57 (1965) 9.
[49] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 5: AAS 57 (1965) 8.
[50] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 2: AAS 57 (1965) 6.
[51] X. Mt 25,31.
[52] X. 2 Tx 2,7.
[53] X. 1 Cr 15,28.
[54] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 48: AAS 57 (1965) 53.
[55] X. 1 Cr 11,26.
[56] X. 2 Pr 3,11-12.
[57] X. 1 Cr 16,22; Kh 22,17.
[58] Thánh Tôma Aquinô, Summa theologiae, III, q. 60, a. 3, c.: Ed. Leon. 12,6.
[59] X. Lc 22,18; Mc 14,25.
[60] Didaché, 10, 6: SC 248, 180 (Funk, Patres apostolici, 1, 24).
[61] Tertullianô, De oratione, 5, 2-4: CCL 1, 260 (PL 1, 1261-1262).
[62] X. Mt 6,21.24.
[63] X. Lc 8,6.13.
