Tài liệu là một lời kêu gọi khẩn thiết gửi đến các tín hữu Công giáo: "Hãy vượt thắng cám dỗ thờ ơ trong các môi trường chính trị và lập pháp" trước hiện tượng "các mối quan hệ sống chung ngoài hôn nhân", và đặt lại vấn đề về "giáo điều" cho rằng dân chủ và chủ nghĩa tương đối đạo đức là không thể tách rời – vốn là nền tảng cho nhiều sáng kiến lập pháp có xu hướng đặt các mối quan hệ sống chung ngang hàng với gia đình truyền thống. Qua tài liệu này, Hội đồng Giáo hoàng về Gia đình tái khẳng định rằng, đối với Giáo hội, việc công nhận pháp lý các mối quan hệ sống chung ngoài hôn nhân là một mối đe dọa nghiêm trọng đối với định chế hôn nhân được thiết lập trên giao ước vợ chồng, và đối với các gia đình được khai sinh từ giao ước ấy. Mục tiêu của văn kiện là cung cấp các định hướng mục vụ, đồng thời trình bày một cách rộng rãi các khía cạnh nhân học, xã hội và văn hóa liên quan đến hiện tượng này, với sự nhấn mạnh rõ ràng về những hậu quả nghiêm trọng mà nó mang lại. Đối tượng được nhắm đến - ngoài các thừa tác viên mục vụ - còn bao gồm các thiết chế xã hội, các nhà lập pháp và các nhà quản lý hành chính, những người có trách nhiệm dẫn dắt các động lực xã hội đang hình thành.
Tài liệu được Linh mục Giuse Đinh Quang Vinh, Ban Mục vụ Gia đình Giáo phận Đà Lạt chuyển ngữ từ nguyên bản tiếng Ý: FAMIGLIA, MATRIMONIO E "UNIONI DI FATTO"; Trích trong quyển: ENCHIRIDION della FAMIGLIA; DOCUMENTI MAGISTERIALI E PASTORALI SU FAMIGLIA E VITA; 1965 – 2004; A cura del PONTIFICIO CONSIGLIO PER LA FAMIGLIA. Trang 1343 – 1391. Sau đây là toàn văn bản dịch Việt ngữ Tài liệu này.
HỘI ĐỒNG GIÁO HOÀNG VỀ GIA ĐÌNH
GIA ĐÌNH, HÔN NHÂN VÀ “CÁC LIÊN HỆ SỐNG CHUNG NGOÀI HÔN NHÂN”
Lời giới thiệu
Một trong những hiện tượng ngày càng lan rộng hiện nay trong toàn xã hội, đồng thời cũng đặt ra những chất vấn sâu sắc đối với lương tâm của cộng đồng Kitô hữu, đó chính là hiện tượng gia tăng các mối liên hệ sống chung ngoài hôn nhân, hậu quả dẫn đến sự thờ ơ đối với tính bền vững của hôn nhân. Trong nỗ lực phân định các “dấu chỉ thời đại”, Giáo hội không thể không quan tâm đến thực tại này.
Ý thức được những hệ lụy nghiêm trọng về mặt xã hội và mục vụ mà hiện tượng này gây ra, suốt năm 1999 và những tháng đầu năm 2000, Hội đồng Giáo hoàng về Gia đình đã tổ chức một loạt các cuộc hội thảo chuyên đề, với sự tham gia đóng góp của các nhân vật lỗi lạc và các chuyên gia uy tín đến từ nhiều nơi trên thế giới, cốt để mà phân tích một cách đầy đủ và thích hợp vấn đề tế nhị nhưng có tầm quan trọng to lớn này đối với Giáo hội và toàn thể nhân loại.
Tài liệu này chính là kết quả của quá trình làm việc đó. Nó đề cập đến một vấn đề vừa mang tính thời sự, vừa đầy khó khăn, nó chạm đến cốt lõi các mối tương quan giữa người với người, một vấn đề hết sức tinh tế liên quan đến mối liên kết mật thiết giữa gia đình và sự sống, liên quan đến những vùng nhạy cảm nhất trong thâm tâm con người. Đồng thời, trước tính chất công khai và ảnh hưởng sâu rộng không thể chối cãi của bối cảnh chính trị quốc tế hiện tại, việc đưa ra một định hướng rõ ràng là điều cần thiết và cấp bách, đặc biệt hướng đến những ai đang có trách nhiệm trong lĩnh vực này. Chính họ là những người, qua các hoạt động lập pháp của mình, hoặc là có thể củng cố tính pháp lý cho định chế hôn nhân, hoặc ngược lại, họ làm suy giảm vai trò của thiện ích chung mà định chế tự nhiên này bảo vệ, xuất phát từ một cái nhìn sai lệch về các vấn đề cá nhân không tương xứng với thực tại.
Những suy tư này cũng được gửi đến các mục tử chăn dắt các linh hồn, những người có sứ mệnh tiếp nhận và hướng dẫn biết bao Kitô hữu ngày nay, cũng như đồng hành với họ trong hành trình tái khám phá giá trị tự nhiên của gia đình, giá trị được bảo vệ bởi định chế hôn nhân và được củng cố bởi bí tích Kitô giáo. Gia đình được xây dựng trên nền tảng hôn nhân phù hợp với kế hoạch “ngay từ thuở ban đầu” (Mt 19,4) của Đấng Tạo Hóa. Trong Vương Quốc của Thiên Chúa, không thể gieo một hạt giống nào khác ngoài hạt giống chân lý đã được khắc ghi trong trái tim con người, duy chỉ chân lý ấy mới có thể “sinh hoa kết quả nhờ kiên trì” (Lc 8,15); một chân lý trở thành lòng thương xót, thấu hiểu và mời gọi nhận ra Đức Giêsu là “ánh sáng thế gian” (Ga 8,12) và là sức mạnh giải thoát khỏi xiềng xích của sự dữ.
Hơn nữa, tài liệu này cũng mong muốn đóng góp một cách tích cực vào cuộc đối thoại nhằm làm sáng tỏ chân lý về những vấn đề và những đòi hỏi phát xuất từ trật tự tự nhiên, đồng thời tham gia vào cuộc tranh luận xã hội-chính trị và trách nhiệm đối với thiện ích chung.
Nguyện xin Thiên Chúa ban ơn để những suy xét trong sáng và trách nhiệm này, góp phần từ biết bao người thiện chí, trở thành thiện ích cho chính cộng đồng sự sống, vốn cần thiết cho Giáo hội và cho thế giới, đó chính là gia đình.
Thành Vatican, ngày 26 tháng 7 năm 2000, lễ Thánh Gioakim và Thánh Anna, Song thân của Đức Trinh Nữ Maria rất thánh
Hồng Y Alfonso López Trujillo, Chủ tịch
Đức Tổng Giám mục Francisco Gil Hellín, Thư ký
Dẫn nhập
1. Trong những năm gần đây, các hình thức liên hệ sống chung ngoài hôn nhân đã ngày càng thu hút sự chú ý đặc biệt trong xã hội. Nhiều sáng kiến đang được đưa ra nhằm yêu cầu công nhận chính thức cho các mối quan hệ này, thậm chí là đặt chúng ngang hàng với các gia đình được hình thành bởi cam kết hôn nhân. Trước một vấn đề có tầm quan trọng như vậy – vốn có thể tạo ra nhiều tác động lâu dài đến toàn thể cộng đồng nhân loại – Hội đồng Giáo hoàng về Gia đình mong muốn, qua những suy tư sắp trình bày, gióng lên tiếng cảnh báo về những nguy cơ sẽ nảy sinh nếu các liên hệ sống chung ngoài hôn nhân này được công nhận và đối xử ngang hàng với hôn nhân. Điều đó không chỉ đe dọa đến căn tính của sự kết hợp hôn nhân, mà còn dẫn đến sự suy thoái nghiêm trọng đối với gia đình và gây tổn hại lớn lao cho thiện ích chung của xã hội.
Sau khi đã phân tích khía cạnh xã hội của các hình thức liên hệ sống chung ngoài hôn nhân, các yếu tố cấu thành và những lý do cá nhân gắn liền với thực tế cuộc sống, tài liệu này tiếp tục đề cập đến vấn đề công nhận pháp lý và việc đặt những mối quan hệ ấy ngang hàng với gia đình được xây dựng trên nền tảng hôn nhân, cũng như với toàn thể xã hội. Tài liệu cũng xem gia đình như một thiện ích chung của xã hội, nhấn mạnh đến những giá trị khách quan cần được khuyến khích, và đến nghĩa vụ công bình mà xã hội phải thực hiện trong việc bảo vệ và thúc đẩy gia đình được thiết lập bởi hôn nhân. Tiếp theo, tài liệu phân tích một cách sâu sắc một số khía cạnh của những yêu cầu này, trong mối tương quan với hôn nhân Kitô giáo. Sau cùng, tài liệu trình bày một số tiêu chí chung để phân định mục vụ, nhằm định hướng cho các cộng đoàn Kitô hữu.
Những cứu xét được trình bày trong tài liệu này không chỉ dành riêng cho những ai công khai nhìn nhận nơi Giáo hội Công giáo là “Giáo hội của Thiên Chúa hằng sống, cột trụ và nền tảng của chân lý” (1Tm 3,15), mà còn hướng đến tất cả các Kitô hữu thuộc các Giáo hội và cộng đoàn Kitô giáo khác, cũng như những ai đang chân thành dấn thân vì thiện ích quý giá của gia đình, tế bào căn bản của xã hội. Như Công đồng Vaticanô II đã dạy: “Ơn cứu độ của con người và của xã hội nhân loại cũng như Kitô giáo gắn liền mật thiết với tình trạng tốt đẹp của cộng đoàn hôn nhân và gia đình. Vì thế, cùng với tất cả những ai trân trọng cộng đoàn này, các Kitô hữu chân thành vui mừng trước những phương thế đa dạng đang giúp con người ngày nay tiến bộ trong việc cổ võ cộng đoàn yêu thương ấy và trong thái độ tôn trọng sự sống, đồng thời hỗ trợ các đôi bạn và các bậc cha mẹ trong sứ mạng cao cả của họ”[1].
I. Việc “liên hệ sống chung ngoài hôn nhân”
Khía cạnh xã hội của việc "liên hệ sống chung ngoài hôn nhân"
2. Cụm từ “unione di fatto - liên kết thực tế” bao hàm một tập hợp các thực tại nhân sinh đa dạng và không đồng nhất, có điểm chung là các mối liên hệ sống chung (mang tính tình dục) mà không có hôn nhân. Các liên kết thực tế này được xác định rõ bởi việc phớt lờ, trì hoãn hoặc thậm chí từ chối cam kết hôn nhân. Từ đó nó làm phát sinh những hệ quả nghiêm trọng.
Thông qua hôn nhân, con người công khai đón nhận, bằng giao ước tình yêu phu thê, tất cả những trách nhiệm phát sinh từ mối liên kết đã được thiết lập ấy. Việc công khai đón nhận trách nhiệm này mang lại lợi ích không chỉ cho đôi bạn và con cái trong quá trình trưởng thành về tình cảm và giáo dục, mà còn cho các thành viên khác trong gia đình. Vì thế, gia đình được xây dựng trên nền tảng hôn nhân trở thành một thiện ích nền tảng và quý giá đối với toàn xã hội, bởi xã hội được đặt nền móng vững chắc trên những giá trị được thể hiện cụ thể trong các mối quan hệ gia đình, và chính hôn nhân ổn định là sự bảo đảm cho những giá trị ấy. Thiện ích phát sinh từ hôn nhân cũng là điều thiết yếu đối với Giáo hội, vốn nhận thấy nơi gia đình hình ảnh của “Giáo hội tại gia” (Ecclesia domestica).[2] Tất cả những điều này đang bị đe dọa bởi việc từ bỏ định chế hôn nhân, một sự từ bỏ vốn đã được hàm chứa trong các hình thức liên hệ sống chung ngoài hôn nhân.
3. Có thể xảy ra trường hợp con người mong muốn hoặc thực sự sử dụng tính dục theo cách khác với mục đích mà Thiên Chúa đã ghi khắc trong bản tính nhân loại và trong ý nghĩa nhân linh đặc thù của các hành vi ấy. Bằng cách đó, ngôn ngữ liên vị của tình yêu bị phủ nhận, và cuộc đối thoại chân thực của sự sống – vốn được Đấng Tạo Hóa và Đấng Cứu Chuộc của nhân loại thiết lập – bị tổn hại nghiêm trọng bởi một trật tự khách quan bị đảo lộn. Vì giáo huấn của Giáo hội Công giáo đã được công chúng biết đến rộng rãi, nên không cần thiết phải trình bày lại tại đây[3]. Tuy nhiên, chiều kích xã hội của vấn đề đòi hỏi một nỗ lực suy tư bổ sung, đặc biệt đối với những người đang nắm giữ trách nhiệm công quyền, nó nhằm làm sáng tỏ rằng không nên nâng các tình huống riêng tư này lên thành vấn đề thuộc lợi ích công cộng. Dưới chiêu bài điều chỉnh khung sống chung về mặt xã hội và pháp lý, người ta tìm cách biện minh cho việc công nhận chính thức các liên hệ sống chung ngoài hôn nhân, vốn đang được hợp pháp hóa bằng luật pháp với các quyền và nghĩa vụ, gây tổn hại cho gia đình được xây dựng trên nền tảng hôn nhân. Các mối liên kết thực tế này vì thế được đặt ở một cấp độ pháp lý tương đương với hôn nhân. Một hình thức sống chung như vậy được công khai xem là “thiện ích”, được nâng lên thành một điều kiện tương tự, thậm chí ngang hàng với hôn nhân, gây phương hại đến chân lý và công lý. Bằng cách đó, người ta mạnh mẽ góp phần làm suy thoái định chế tự nhiên này, vốn là thiết chế tuyệt đối thiết yếu, nền tảng và không thể thiếu đối với toàn thể cơ thể xã hội: đó chính là hôn nhân.
Các yếu tố cấu thành liên hệ sống chung ngoài hôn nhân
4. Các hình thức liên hệ sống chung ngoài hôn nhân không phải lúc nào cũng có tầm ảnh hưởng xã hội và động lực hình thành giống nhau. Khi cố gắng xác định những đặc điểm tích cực của các mối liên hệ này, bên cạnh những điểm chung tiêu cực, vốn bao gồm việc trì hoãn, phớt lờ hoặc thậm chí từ chối sự liên kết hôn nhân hợp pháp, chúng làm nổi bật lên một vài yếu tố. Trước hết, đó là tính chất thuần túy thực dụng (thực tế) của mối quan hệ này. Cần làm sáng tỏ rằng nó giả định một sự sống chung kèm theo quan hệ tình dục (điểm này giúp phân biệt với các kiểu sống chung khác), cùng với khuynh hướng ổn định tương đối (giúp phân biệt với các quan hệ sống chung mang tính ngẫu nhiên hoặc tạm bợ). Các liên hệ sống chung ngoài hôn nhân không bao hàm các quyền và nghĩa vụ hôn nhân, cũng không đòi hỏi một sự ổn định dựa trên ràng buộc hôn nhân. Chúng được xác định bởi sự khẳng định rõ ràng rằng không có bất kỳ ràng buộc nào. Tính bất ổn thường trực, phát sinh từ khả năng chấm dứt cuộc sống chung bất cứ lúc nào, vì thế trở thành đặc điểm tiêu biểu của liên hệ sống chung ngoài hôn nhân. Tuy nhiên, cũng tồn tại cách minh nhiên hay mặc nhiên một dạng “dấn thân” nào đó về “sự trung thành” qua lại, có thể nói là chừng nào chuyện sống chung ấy còn tiếp diễn.
5. Một số hình thức liên hệ sống chung ngoài hôn nhân rõ ràng là hệ quả của một lựa chọn có chủ ý. Hình thức liên hệ sống chung ngoài hôn nhân “để thử nghiệm” thường thấy nơi những người dự định kết hôn trong tương lai, nhưng lại đặt điều kiện cho hôn nhân bằng việc trải nghiệm sống chung không có ràng buộc hôn thú. Mối liên hệ này, theo một cách nào đó, được xem như một “giai đoạn thử nghiệm có điều kiện” trước khi tiến tới hôn nhân, có thể so sánh với hình thức “hôn nhân thử nghiệm”[4]. Tuy nhiên, khác với hôn nhân thử nghiệm, hình thức sống chung này hướng đến một mức độ công nhận xã hội nhất định.
Một số người liên hệ sống chung ngoài hôn nhân biện minh cho lựa chọn của mình bằng lý do kinh tế hoặc để tránh những rắc rối pháp lý. Tuy nhiên, nhiều khi những lý do thực sự lại sâu xa hơn. Không hiếm trường hợp mà những lý do viện dẫn ấy che giấu một cách nghĩ hạ giá tính dục. Đó là một cách nghĩ mang dấu ấn của chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa khoái lạc, và một quan niệm về tình yêu trốn tránh trách nhiệm. Cách nghĩ ấy cho phép lẩn tránh lời cam kết vững bền, trốn tránh trách nhiệm, quyền lợi và bổn phận vốn gắn liền với tình yêu hôn nhân đích thực.
Trong những trường hợp khác, các mối quan hệ sống chung không hôn phối được thiết lập giữa những người đã ly hôn. Khi đó, chúng trở thành một hình thức thay thế cho hôn nhân. Với nền lập pháp ủng hộ ly hôn, hôn nhân thường có xu hướng đánh mất bản sắc của chính nó trong ý thức cá nhân. Về điểm này, cần nhấn mạnh rằng sự mất niềm tin vào thể chế hôn nhân đôi khi bắt nguồn từ những trải nghiệm tiêu cực và tổn thương của một cuộc ly hôn trước đó, hoặc từ việc cha mẹ đã ly hôn. Hiện tượng gây lo ngại này đang bắt đầu trở nên đáng chú ý về mặt xã hội tại các quốc gia phát triển về kinh tế.
Không hiếm trường hợp những người liên hệ sống chung ngoài hôn nhân lại từ chối hôn nhân một cách rõ ràng vì lý do ý thức hệ. Khi ấy, đó là một sự lựa chọn có chủ đích: một lối sống tính dục theo cách riêng của họ. Những người này xem hôn nhân là điều không thể chấp nhận, là trái ngược với hệ tư tưởng của họ, thậm chí là một "hành động thô bạo không thể dung thứ đối với sự an lành cá nhân", hoặc "nấm mồ của tình yêu thời mọi rợ", những cách diễn đạt ấy cho thấy một sự hiểu biết sai lệch về bản chất đích thực của tình yêu con người: về tính vị tha, phẩm giá cao quý và vẻ đẹp của nó trong sự bền bỉ và trung tín nơi các mối tương quan giữa người với người.
6. Tuy nhiên, không phải lúc nào các mối liên hệ sống chung ngoài hôn nhân cũng là kết quả của một lựa chọn tích cực rõ ràng; đôi khi, những người đang sống trong các mối quan hệ ấy chỉ đơn thuần chịu đựng hoặc cam chịu hoàn cảnh đó. Tại một số quốc gia, phần lớn các mối quan hệ này không phát sinh từ lý do ý thức hệ, mà là do sự thiếu hụt trong việc chuẩn bị thích đáng để đảm nhận trách nhiệm hôn nhân – hệ quả của tình trạng nghèo đói và bị gạt ra bên lề xã hội trong môi trường sống của họ. Thiếu niềm tin vào hôn nhân cũng có thể bắt nguồn từ các yếu tố gia đình, đặc biệt là ở những quốc gia thuộc Thế giới thứ ba. Ngoài ra, các tình trạng bất công và những cơ cấu mang tính tội lỗi là những yếu tố quan trọng không thể bỏ qua và cần được cân nhắc một cách nghiêm túc. Về phương diện văn hóa, sự chi phối bởi các thái độ gia trưởng hoặc phân biệt chủng tộc càng làm trầm trọng thêm những hoàn cảnh khó khăn này một cách đáng kể.
Trong bối cảnh này, không hiếm gặp những mối liên hệ sống chung ngoài hôn nhân mà ngay từ đầu đã thể hiện một ý chí sống chung nghiêm túc và chân thành, trong đó các bên coi nhau như vợ chồng và cố gắng chu toàn những bổn phận tương tự như trong hôn nhân[5]. Tình trạng nghèo đói của họ, vốn thường là hệ quả của những mất cân đối trong trật tự kinh tế toàn cầu, cùng với những thiếu hụt mang tính cơ cấu trong lĩnh vực giáo dục, đã trở thành những trở ngại nghiêm trọng khiến họ khó xây dựng được một gia đình thực sự.
Ở những nơi khác, việc sống chung (trong khoảng thời gian dài hoặc ngắn) trước khi có thai hoặc sinh con đầu lòng lại phổ biến hơn. Những tập tục này gắn liền với các thực hành truyền thống cổ xưa, đặc biệt mạnh mẽ ở một số vùng thuộc châu Phi và châu Á, liên quan đến hình thức được gọi là “hôn nhân theo từng giai đoạn”. Đây là những tập tục khó loại bỏ, đi ngược lại với phẩm giá con người, và thường kéo theo những hệ lụy xã hội rõ nét và mang tính tiêu cực. Những mối quan hệ như vậy không nên được xếp vào nhóm các mối quan hệ sống chung mà chúng ta đang đề cập tại đây (vốn phát sinh bên ngoài nền nhân học văn hóa truyền thống), bởi chúng đặt ra một thách thức lớn đối với tiến trình hội nhập đức tin vào đời sống văn hóa trong thiên niên kỷ thứ ba của kỷ nguyên Kitô giáo.
Tính chất phức tạp và đa dạng của vấn đề các mối liên hệ sống chung ngoài hôn nhân thể hiện rõ khi xét đến thực tế rằng, đôi khi nguyên nhân trực tiếp của những mối quan hệ này lại xuất phát từ các yếu tố liên quan đến hỗ trợ xã hội. Đây là trường hợp thường gặp ở các quốc gia phát triển, nơi một số người cao tuổi lựa chọn thiết lập mối quan hệ sống chung thuần túy thay vì kết hôn, do lo ngại rằng hôn nhân có thể dẫn đến gánh nặng thuế cao hơn hoặc làm mất quyền hưởng chế độ hưu trí.
Những lý do cá nhân và yếu tố văn hóa
7. Cần đặt vấn đề về những nguyên nhân sâu xa dẫn đến cuộc khủng hoảng của hôn nhân trong xã hội đương đại – cả trong chiều kích tôn giáo lẫn dân sự – cũng như về những sáng kiến nhằm công nhận các mối liên hệ sống chung ngoài hôn nhân và tìm cách thiết lập sự bình đẳng cho chúng. Theo đó, những tình huống mang tính bất ổn – vốn được xác định nhiều hơn bởi khía cạnh tiêu cực (tức là việc bỏ qua ràng buộc hôn nhân) hơn là những mặt tích cực – lại có xu hướng được đối xử tương đương với hôn nhân. Trên thực tế, tất cả những tình huống này đều tạo nên những hình thức quan hệ khác nhau, nhưng đều đi ngược lại với việc trao hiến cho nhau cách trọn vẹn, bền vững và được xã hội thừa nhận. Sự phức tạp của các nguyên nhân kinh tế, xã hội học và tâm lý – trong bối cảnh tình yêu bị cá nhân hóa và đặc tính thể chế của hôn nhân bị xóa bỏ – cho thấy cần phải đào sâu hơn các quan điểm ý thức hệ và văn hóa vốn là nền tảng của sự phát triển và xác lập dần dần hiện tượng sống chung không hôn phối như ta đang thấy ngày nay.
Sự suy giảm đều đặn trong số lượng các cuộc hôn nhân và các gia đình được pháp luật công nhận tại nhiều quốc gia, cùng với sự gia tăng số lượng các cặp đôi sống chung không kết hôn ở một số nước, không thể được lý giải đơn thuần như một phong trào văn hóa đơn lẻ và tự phát. Những hiện tượng này phản ánh những thay đổi có tính lịch sử đang diễn ra trong các xã hội hiện đại, thuộc giai đoạn văn hóa mà một số tác giả gọi là “hậu hiện đại.” Không thể phủ nhận rằng: sự giảm sút vai trò của ngành nông nghiệp; sự phát triển mạnh mẽ lĩnh vực dịch vụ trong nền kinh tế; tuổi thọ trung bình ngày càng cao; sự thiếu ổn định trong công việc và trong các mối quan hệ cá nhân; số lượng thành viên sống chung trong một gia đình ngày càng ít đi; cùng với sự toàn cầu hóa các hiện tượng kinh tế – xã hội… tất cả đã góp phần làm gia tăng sự bất ổn trong đời sống gia đình và thúc đẩy một hình mẫu gia đình có quy mô nhỏ hơn. Nhưng chừng đó đã đủ để giải thích tình trạng hiện tại của hôn nhân chưa? Thực tế cho thấy: thể chế hôn nhân ít đối mặt với khủng hoảng ở những nơi mà truyền thống gia đình vẫn còn bền vững.
8. Trong tiến trình mà ta có thể gọi là sự tháo rỡ từng bước về mặt văn hóa và nhân học đối với thể chế hôn nhân, không thể xem nhẹ sự lan rộng của một số hình thái tư tưởng mang tính“giới” (gender). Theo đó, việc một người là nam hay nữ không còn được xác định chủ yếu bởi giới tính sinh học, mà bởi các yếu tố văn hóa. Tư tưởng này tác động đến tận gốc rễ của gia đình và các mối tương quan giữa các nhân vị. Vấn đề này đòi hỏi một sự suy xét nghiêm túc, bởi lẽ nó giữ vai trò quan trọng trong nền văn hóa đương đại và có ảnh hưởng trực tiếp đến hiện tượng liên hệ sống chung ngoài hôn nhân.
Trong quá trình con người hình thành và phát triển nhân cách, một yếu tố đặc biệt quan trọng chính là ý thức về căn tính. Từ thời thơ ấu cho đến hết giai đoạn vị thành niên, con người từng bước nhận thức được “cái tôi” của mình và bản sắc cá nhân. Nhận thức đó diễn tiến trong một hành trình khám phá bản thân, kéo theo sự hiểu biết về phương diện giới tính. Vì thế, đó là một kiểu ý thức về căn tính và sự khác biệt. Các chuyên gia thường phân biệt giữa hai khái niệm: “căn tính tính dục” – tức là nhận thức về bản sắc tâm lý – sinh học của giới tính mình và sự khác biệt với giới tính còn lại; và “căn tính giới” – tức là nhận thức về vai trò tâm lý – xã hội và văn hóa của những người thuộc một giới nhất định trong xã hội. Trong một tiến trình phát triển nhân cách hài hòa và đúng đắn, căn tính tính dục và căn tính giới bổ trợ cho nhau, bởi con người hiện diện trong xã hội theo cách phù hợp với các mô hình văn hóa gắn liền với giới tính của mình. Vì vậy, khái niệm căn tính giới (“gender”) thuộc phạm vi tâm lý – xã hội và văn hóa. Nó hòa hợp một cách tự nhiên với căn tính tính dục, vốn thuộc về phương diện tâm lý – sinh học, khi sự hình thành nhân cách đi đôi với việc nhận ra đầy đủ chân lý nội tại nơi con người – một thực thể hiệp nhất giữa linh hồn và thể xác.
Bắt đầu từ thập niên 1960–1970, một số lý thuyết – ngày nay thường được các chuyên gia gọi là “cấu trúc luận” (constructionist) – cho rằng căn tính giới (“gender”) không chỉ là kết quả của sự tương tác giữa cộng đồng và cá nhân, mà còn có thể tồn tại độc lập với căn tính giới tính cá nhân. Nói cách khác, các giới tính nam và nữ trong xã hội được xem là sản phẩm thuần túy của các yếu tố xã hội, không liên quan đến bất kỳ chân lý nào về chiều kích tính dục nơi con người. Theo quan điểm đó, mọi xu hướng tính dục đều có thể được biện minh – kể cả đồng tính luyến ái – và chính xã hội cần phải thay đổi để mở rộng cấu trúc đời sống xã hội, không chỉ bao gồm nam và nữ, mà còn có chỗ cho những hình thức giới khác[6].
Tư tưởng “giới” đã tìm thấy một môi trường thuận lợi trong nền nhân học mang tính cá nhân chủ nghĩa của chủ nghĩa tân tự do cấp tiến[7]. Việc đòi hỏi một quy chế tương đương giữa hôn nhân và các mối liên hệ sống chung ngoài hôn nhân (bao gồm cả các mối liên hệ đồng giới) ngày nay thường được biện minh bằng cách sử dụng các phạm trù và thuật ngữ xuất phát từ tư tưởng “giới”[8]. Từ đó, hình thành một xu hướng gọi bất kỳ kiểu liên hệ đồng thuận nào giữa các cá nhân là “gia đình”, trong khi bỏ qua khuynh hướng tự nhiên của tự do con người hướng đến sự trao hiến qua lại – cùng với những đặc tính thiết yếu vốn là nền tảng của một thiện ích chung của nhân loại đó chính là thể chế hôn nhân.
II - Gia đình được thành lập trên cơ sở hôn nhân và những liên hệ sống chung ngoài hôn nhân
Gia đình, sự sống và liên hệ sống chung ngoài hôn nhân
9. Cần nhận thức rõ sự khác biệt căn bản giữa hôn nhân và các mối liên hệ sống chung ngoài hôn nhân. Chính tại điểm này mà sự phân biệt giữa gia đình phát xuất từ hôn nhân và cộng đồng được tạo ra từ một sự liên hệ sống chung ngoài hôn nhân. Cộng đồng gia đình được khai sinh từ giao ước kết hợp giữa hai người phối ngẫu. Hôn nhân phát sinh từ giao ước tình yêu vợ chồng ấy không phải là sản phẩm của quyền lực công quyền, mà là một định chế tự nhiên và nguyên thủy vốn có trước mọi hình thức tổ chức xã hội. Ngược lại, trong các mối liên hệ sống chung ngoài hôn nhân, tuy có sự chia sẻ tình cảm giữa hai người, nhưng lại thiếu vắng mối dây liên kết hôn nhân mang tính công khai và nguyên thủy – vốn là nền tảng thiết yếu để hình thành một gia đình. Gia đình và sự sống tạo thành một đơn vị thống nhất cần được xã hội bảo vệ, bởi nó chính là tế bào sống động của tiến trình nối tiếp các thế hệ nhân loại – qua việc sinh sản và giáo dục.
Trong các xã hội phóng khoáng và dân chủ ngày nay, Nhà nước và các cơ quan công quyền không nên thể chế hóa các mối liên hệ sống chung ngoài hôn nhân bằng cách trao cho chúng một địa vị pháp lý tương tự như hôn nhân và gia đình. Lại càng không nên đặt chúng ngang hàng với gia đình được xây dựng trên nền tảng hôn nhân. Việc làm đó sẽ là một sự lạm dụng quyền lực mang tính tùy tiện, không đem lại lợi ích chung, bởi lẽ bản chất nguyên thủy của hôn nhân và gia đình vốn vượt lên trên, và hoàn toàn vượt khỏi quyền lực tối cao của Nhà nước. Một cách tiếp cận bình tĩnh, khách quan và không bị chi phối bởi xu hướng tùy tiện hay mị dân, sẽ khuyến khích sự suy ngẫm nghiêm túc trong các cộng đồng chính trị khác nhau về những khác biệt cốt lõi giữa đóng góp thiết yếu của gia đình dựa trên hôn nhân đối với lợi ích chung và thực tế khác của các mối quan hệ sống chung thuần túy dựa trên tình cảm. Thật vô lý khi cho rằng các mối quan hệ thuần cảm xúc có thể đảm đương một cách rộng rãi, ổn định và lâu dài những chức năng sống còn mà cộng đồng gia đình theo thể chế hôn nhân một vợ một chồng đang thực hiện. Là một yếu tố thiết yếu đối với sự tồn tại, ổn định và bình an, gia đình được xây dựng trên nền tảng hôn nhân cần được bảo vệ và phát triển một cách cẩn trọng, trong một tầm nhìn rộng hơn, có tính đến tương lai và lợi ích chung của xã hội.
10. Sự bình đẳng trước pháp luật phải được thực hiện trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc công lý, nguyên tắc này đòi hỏi rằng những gì giống nhau thì phải được đối xử như nhau, và những gì khác biệt thì phải được đối xử khác biệt; tức là, mỗi cá nhân cần được trao những gì thuộc về họ một cách công bằng. Nguyên tắc công lý này sẽ bị vi phạm nếu các mối liên hệ sống chung ngoài hôn nhân được trao một quy chế pháp lý giống hoặc tương đương với gia đình được xây dựng trên nền tảng hôn nhân. Nếu gia đình dựa trên hôn nhân và các mối liên hệ sống chung ngoài hôn nhân không tương đồng hay tương đương về nghĩa vụ, vai trò và đóng góp đối với xã hội, thì cũng không thể được xem là tương đồng hoặc tương đương về địa vị pháp lý.
Lý do "không phân biệt đối xử" được viện dẫn bởi những người thúc đẩy việc công nhận các mối liên hệ sống chung ngoài hôn nhân, trên thực tế lại dẫn đến sự phân biệt đối xử đối với gia đình dựa trên hôn nhân. Bởi lẽ, gia đình này bị đối xử tương đương với mọi hình thức chung sống khác mà hoàn toàn không xét đến yếu tố cam kết trung thành lẫn nhau, cũng như trách nhiệm sinh thành và giáo dục con cái. Khuynh hướng hiện nay của một số cộng đồng chính trị trong việc xem nhẹ thể chế hôn nhân, bằng cách trao cho các mối liên hệ sống chung ngoài hôn nhân một địa vị pháp lý tương tự hoặc tương đương với hôn nhân và gia đình – thậm chí là đối xử tương đương – là một biểu hiện nghiêm trọng của sự suy giảm trong nhận thức luân lý xã hội, của thứ “tư duy thiếu chiều sâu” trước thiện ích chung. Nếu không muốn nói rằng, đó chính là một một dự phóng ý thức hệ mang tính định hướng, được thúc đẩy bởi các nhóm vận động có ảnh hưởng.
11. Theo cùng hệ thống nguyên tắc, cần lưu tâm rõ ràng đến sự phân biệt giữa lợi ích công cộng và lợi ích cá nhân. Trong trường hợp lợi ích công cộng, xã hội và các cơ quan công quyền có nghĩa vụ bảo vệ và thúc đẩy; còn đối với lợi ích cá nhân, Nhà nước chỉ nên giới hạn ở việc bảo đảm quyền tự do. Khi lợi ích mang tính công cộng, thì luật công được áp dụng; ngược lại, những gì thuộc lợi ích cá nhân phải thuộc phạm vi tư nhân giải quyết. Hôn nhân và gia đình vốn mang bản chất của lợi ích công cộng, và là nền tảng thiết yếu của xã hội cũng như Nhà nước. Vì vậy, chúng cần được công nhận và bảo vệ. Hai hoặc nhiều người có thể tự do lựa chọn sống chung với nhau, có hoặc không có quan hệ tình dục; tuy nhiên, việc chung sống hay việc ăn ở chung này không vì thế mà trở thành vấn đề của lợi ích công cộng. Các cơ quan công quyền có thể không can thiệp vào sự lựa chọn này vì đây là hành vi mang tính cá nhân. Các mối liên hệ sống chung ngoài hôn nhân là hệ quả của hành vi cá nhân, và do đó nên được duy trì trong phạm vi riêng tư. Việc công nhận công khai hoặc xem chúng tương đương với hôn nhân – tức là nâng lợi ích cá nhân lên thành lợi ích công cộng – sẽ gây tổn hại đến gia đình dựa trên hôn nhân. Trong hôn nhân, nam và nữ thiết lập một giao ước trọn đời, vốn mang bản chất hướng tới thiện ích của đôi bên, cũng như việc sinh sản và giáo dục con cái. Khác với các mối liên hệ sống chung ngoài hôn nhân, trong hôn nhân, các cam kết và trách nhiệm có ý nghĩa xã hội được công khai và thiết lập một cách chính thức, và có thể được đòi hỏi thực hiện trong khuôn khổ pháp lý.
Các mối liên hệ sống chung ngoài hôn nhân và giao ước hôn nhân
12. Việc đề cao các mối liên hệ sống chung ngoài hôn nhân cũng hàm chứa một chiều kích chủ thể. Chúng ta đang đứng trước những con người cụ thể, mang theo một thế giới quan riêng, một ý hướng sống cá nhân – nói ngắn gọn, mỗi người đều có “lịch sử” của mình. Chúng ta cần nhận thức thực tại hiện sinh từ góc nhìn của quyền tự do lựa chọn cá nhân và phẩm giá con người, vốn là những chủ thể có thể mắc sai lầm. Tuy nhiên, trong các mối liên hệ sống chung ngoài hôn nhân, yêu cầu được công nhận công khai không chỉ đơn thuần là vấn đề thuộc lĩnh vực tự do cá nhân. Do đó, cần phải tiếp cận vấn đề này từ góc độ đạo đức xã hội: cá nhân con người, với tư cách là một nhân vị, cũng chính là một hữu thể xã hội; con người không kém phần mang tính xã hội so với tính lý trí của mình[9].
Con người có thể gặp gỡ nhau qua đối thoại và cùng quy chiếu vào những giá trị chung cũng như các nhu cầu tương đồng liên quan đến thiện ích chung. Trong lĩnh vực này, chuẩn mực phổ quát và tiêu chí duy nhất không thể là gì khác ngoài chân lý về điều thiện của con người – một chân lý khách quan, siêu việt và bình đẳng cho mọi người. Việc đạt tới chân lý đó và gắn bó với nó chính là điều kiện của tự do và sự trưởng thành cá nhân, đồng thời là mục tiêu đích thực của một đời sống xã hội có trật tự và phong nhiêu. Việc chỉ chú trọng đến chủ thể, đến cá nhân, đến ý hướng và chọn lựa cá nhân mà không hề quy chiếu đến chiều kích xã hội và khách quan của chúng – vốn gắn liền với thiện ích chung – là hệ quả của một chủ nghĩa cá nhân tùy tiện và không thể chấp nhận được: một thái độ mù lòa trước các giá trị khách quan, trái với phẩm giá con người và gây phương hại cho trật tự xã hội. Vì vậy, cần phải thúc đẩy một cuộc suy tư có khả năng giúp không chỉ các tín hữu, mà cả mọi người thiện chí khám phá lại giá trị của hôn nhân và gia đình. Trong Giáo lý Hội Thánh Công giáo, ta đọc thấy: “Gia đình là tế bào nguyên thủy của đời sống xã hội. Đó là xã hội tự nhiên trong đó người nam và người nữ được mời gọi hiến thân cho nhau trong tình yêu và trong việc trao ban sự sống. Quyền bính, tính ổn định và đời sống tương quan trong lòng gia đình hình thành nền tảng của tự do, an toàn và tình huynh đệ trong khuôn khổ xã hội.” [10] Lý trí cũng có thể khám phá lại giá trị của gia đình, nếu biết lắng nghe luật luân lý đã được khắc ghi trong trái tim con người. Là một cộng đoàn được thiết lập và được sinh động hóa bởi tình yêu,[11] gia đình kín múc sức mạnh từ giao ước yêu thương vĩnh viễn, nhờ đó người nam và người nữ trao hiến cho nhau một cách trọn vẹn, và luôn trở thành cộng tác viên của Thiên Chúa trong việc trao ban sự sống.[12]
Công đồng Vaticanô II chỉ ra rằng cái gọi là “tình yêu tự do” (amore sic dicto libero)[13] là một yếu tố làm tan rã và phá hủy hôn nhân, bởi nó thiếu vắng nhân tố cấu tạo nên tình yêu phu thê – tức là sự ưng thuận cá nhân và không thể thu hồi, qua đó hai người phối ngẫu trao hiến và đón nhận nhau cách trọn vẹn, tạo nên một mối dây mối dây ràng buộc pháp lý và tính đơn nhất được bảo đảm bởi chiều kích công khai của công lý. Điều mà Công đồng gọi là tình yêu “tự do”, khi đặt đối lập với tình yêu phu thê đích thực, vốn là và vẫn tiếp tục là mầm mống hình thành các mối liên hệ sống chung ngoài hôn nhân. Sau đó, với tốc độ thay đổi nhanh chóng của bối cảnh xã hội và văn hóa hiện nay, đã xuất hiện một đề án mang tính hệ thống nhằm trao địa vị (status) pháp lý công khai cho những mối liên hệ sống chung ngoài hôn nhân này.
13. Cũng như bất kỳ vấn đề nhân sinh nào khác, các mối liên hệ sống chung ngoài hôn nhân cũng cần được tiếp cận bằng một quan điểm phù hợp với lý trí – cụ thể là từ góc độ của “recta ratio” (lý trí đúng đắn)[14]. Trong luân lý học cổ điển, thuật ngữ này chỉ việc phân tích thực tại và phán đoán lý trí một cách khách quan, không bị chi phối bởi cảm xúc lệch lạc, sự yếu mềm trước những hoàn cảnh đau thương dẫn tới lòng thương hại hời hợt, bởi những định kiến ý thức hệ, áp lực xã hội hoặc văn hóa, hay ảnh hưởng từ các nhóm vận động hay đảng phái chính trị. Người Kitô hữu có một cái nhìn về hôn nhân và gia đình, đặt nền tảng hài hòa trong chân lý đến từ Thánh Kinh, Thánh Truyền và Huấn quyền của Hội Thánh[15]. Tuy nhiên, ánh sáng của đức tin dạy rằng thực tại của Bí tích Hôn phối không phải là một điều đến sau hay từ bên ngoài – như một yếu tố "bí tích" được gán thêm vào tình yêu phu thê – mà trái lại, chính tình yêu phu thê tự nhiên đó được Đức Kitô đón nhận và nâng lên thành dấu chỉ và phương thế cứu độ trong trật tự của Giao ước Mới. Vì vậy, vấn đề các mối liên hệ sống chung ngoài hôn nhân có thể – và phải – được tiếp cận theo “lý trí đúng đắn” (recta ratio),. Đây không đơn thuần là một vấn đề của đức tin Kitô giáo, mà là một vấn đề thuộc về sự hợp lý. Khuynh hướng đối lập một “tư tưởng Công giáo” mang tính tuyên tín với một “tư tưởng thế tục” trong vấn đề này là một sự hiểu sai nghiêm trọng về trật tự nhân học[16].
III – Các mối liên hệ sống chung ngoài hôn nhân trong bối cảnh toàn xã hội
Chiều kích xã hội và chính trị của vấn đề “bình đẳng hóa” pháp lý
14. Một số ảnh hưởng văn hóa cấp tiến – chẳng hạn như hệ tư tưởng “giới” (gender) đã được trình bày ở trên – đang dẫn đến sự suy thoái của thể chế gia đình. “Đáng lo ngại là cuộc tấn công trực diện vào định chế gia đình đang ngày càng gia tăng, cả trên bình diện văn hóa lẫn trong lĩnh vực chính trị, lập pháp và hành chính… Rõ ràng đang hiện hữu một xu hướng đặt các hình thức sống chung vốn rất khác biệt ngang hàng với thể chế gia đình, mà không phân biệt các chiều kích bí tích, xã hội và luân lý cấu thành nên hôn nhân, và không xét đến những hệ luận nhân học và luân lý nền tảng.”[17] Trong bối cảnh đó, việc xác định rõ căn tính đích thực của gia đình trở thành một ưu tiên hàng đầu. Căn tính này bao hàm sự ổn định trong mối quan hệ phu thê giữa người nam và người nữ – được xem là một giá trị và một đòi hỏi nội tại – sự ổn định ấy được biểu hiện và khẳng định qua viễn tượng sinh sản và giáo dục con cái, vì lợi ích của toàn bộ kết cấu xã hội. Sự ổn định hôn nhân và gia đình không chỉ là kết quả của thiện chí cá nhân, mà còn mang tính thể chế, bởi lẽ việc lựa chọn đời sống hôn nhân được nhà nước công khai thừa nhận. Việc công nhận, bảo vệ và cổ vũ sự ổn định ấy không chỉ phục vụ lợi ích chung, mà còn đặc biệt nhằm bảo vệ những thành phần dễ bị tổn thương nhất – tức là con cái.
15. Một nguy cơ khác có thể phát sinh trong việc xem xét các hệ quả xã hội của vấn đề đang bàn là nguy cơ tầm thường hóa gia đình. Một số người cho rằng việc công nhận và bình đẳng hóa các mối liên hệ sống chung ngoài hôn nhân không đáng phải quá lo ngại, vì số lượng các mối quan hệ này vẫn còn tương đối nhỏ. Tuy nhiên, chính trong trường hợp này, người ta cần rút ra kết luận ngược lại: khi vấn đề được đánh giá thuần túy theo tiêu chí số lượng, cần đặt nghi vấn về lý do tại sao lại nâng mối quan hệ sống chung thành một vấn đề có tầm vóc lớn – nhất là trong bối cảnh hiện nay, khi người ta chỉ dành sự quan tâm tối thiểu cho một vấn đề nghiêm trọng hơn: đó là bảo vệ hôn nhân và gia đình, cả ở hiện tại lẫn trong tương lai, thông qua những chính sách gia đình phù hợp có ảnh hưởng thực sự đến đời sống xã hội. Việc tán dương một cách không phân biệt quyền tự do lựa chọn của cá nhân mà không quy chiếu đến trình tự các giá trị có tầm quan trọng trong xã hội là biểu hiện của một quan niệm hoàn toàn cá nhân chủ nghĩa và tư hữu hóa về hôn nhân và gia đình – vốn mù lòa trước chiều kích xã hội khách quan gắn liền với bản chất của chúng. Chúng ta không được quên rằng: việc sinh sản là nguyên lý “di truyền” căn bản của xã hội, còn giáo dục con cái là điểm khởi đầu cho quá trình truyền đạt và vun đắp kết cấu xã hội, là hạt nhân thiết yếu của cấu trúc tổ chức xã hội.
Việc công nhận và bình đẳng hóa các mối liên hệ sống chung ngoài hôn nhân là hình thức phân biệt đối xử với hôn nhân
16. Việc công nhận công khai các mối liên hệ sống chung ngoài hôn nhân tạo ra một khuôn khổ pháp lý bất cân xứng: trong khi xã hội phải đảm nhận nghĩa vụ đối với những người sống chung theo dạng này, thì bản thân họ lại không gánh lấy những bổn phận tương ứng vốn gắn liền với hôn nhân. Việc bình đẳng hóa càng làm trầm trọng thêm tình trạng này, bởi lẽ nó ưu đãi các mối quan hệ sống chung bằng cách miễn trừ cho họ những bổn phận thiết yếu đối với xã hội. Từ đó phát sinh một sự tách biệt nghịch lý, gây tổn hại nghiêm trọng đến định chế gia đình. Liên quan đến các đề xuất luật pháp gần đây nhằm bình đẳng hóa các mối quan hệ sống chung – kể cả các mối quan hệ đồng tính – với gia đình, cần lưu ý rằng sự công nhận về mặt pháp lý chính là bước đầu dẫn tới việc bình đẳng hóa. Do đó, cần nhắc các nhà lập pháp rằng họ có trách nhiệm nghiêm túc trong việc phản đối những đề xuất ấy, bởi “các nhà lập pháp, đặc biệt là các nghị sĩ Công giáo, không nên ủng hộ bằng lá phiếu của mình cho những luật pháp như vậy, vì chúng đi ngược lại thiện ích chung và chân lý về con người, do đó thực sự là bất công.”[18] Những sáng kiến lập pháp này mang đầy đủ các đặc điểm trái ngược với luật tự nhiên, khiến chúng không thể tương thích với phẩm giá đích thực của một đạo luật. Như Thánh Augustinô đã nói: “Non videtur esse lex, quae iusta non fuerit”(Một đạo luật bất chính thì không thể được xem là luật).[19] Cần phải thừa nhận một nền tảng tối hậu cho toàn bộ hệ thống pháp luật.[20]Vấn đề không nằm ở chỗ áp đặt một “mô hình” hành vi nhất định lên toàn xã hội, mà là đòi hỏi hệ thống pháp luật phải công nhận cách xứng hợp và công bằng sự đóng góp không thể thay thế của gia đình được xây dựng trên nền tảng hôn nhân đối với thiện ích chung. Nơi nào gia đình rơi vào khủng hoảng, nơi đó xã hội cũng bắt đầu chao đảo.
17. Gia đình có quyền được xã hội bảo vệ và nâng đỡ – một quyền được nhiều Hiến pháp hiện hành trên thế giới ghi nhận[21]. Đây là sự thừa nhận công bằng về vai trò thiết yếu mà gia đình được thiết lập trên nền tảng hôn nhân đảm nhận trong đời sống xã hội. Quyền nguyên khởi này của gia đình đồng thời đặt ra cho xã hội một bổn phận không chỉ về mặt luân lý mà còn mang tính pháp lý – dân sự. Quyền của gia đình được xây dựng trên hôn nhân cần được xã hội và nhà nước bảo vệ, nâng đỡ và quy định rõ trong hệ thống pháp luật, vì đó là một nguyên tắc gắn liền với thiện ích chung. Dựa trên lập luận sáng suốt, Thánh Tôma Aquinô bác bỏ quan niệm cho rằng luật luân lý và luật dân sự có thể đối nghịch nhau: tuy khác biệt, nhưng chúng không mâu thuẫn; chúng được phân biệt, nhưng không bị tách biệt; giữa chúng không có sự đồng nhất tuyệt đối, nhưng cũng không tồn tại sự trái ngược[22]. Đức Gioan Phaolô II khẳng định: “Điều quan trọng là những ai được giao phó vận mệnh của các quốc gia phải nhận thức và xác nhận thể chế hôn nhân; thực vậy, hôn nhân có một quy chế pháp lý riêng biệt, công nhận các quyền và nghĩa vụ giữa vợ chồng với nhau và với con cái; vai trò của gia đình trong xã hội – nơi gia đình bảo đảm sự tiếp nối – là vai trò sơ khởi và nền tảng. Gia đình thúc đẩy người trẻ hội nhập vào xã hội và góp phần ngăn ngừa các hiện tượng bạo lực, thông qua việc truyền đạt các giá trị, cùng kinh nghiệm huynh đệ và liên đới được thể hiện trong đời sống hằng ngày. Trong nỗ lực tìm kiếm các giải pháp hợp pháp cho xã hội hiện đại, không thể đặt gia đình được xây dựng trên nền tảng hôn nhân ngang hàng với những hiệp hội hoặc các hình thức liên kết đơn thuần khác. Những hình thức liên hệ này không thể được hưởng các quyền đặc thù vốn gắn liền một cách riêng biệt với sự bảo vệ của cam kết hôn nhân và của gia đình như một cộng đoàn sống động và yêu thương ổn định, là hoa trái của sự trao hiến toàn diện và trung tín giữa vợ chồng, mở ra với sự sống.”[23]
18. Các nhà lãnh đạo chính trị cần nhận thức cách nghiêm túc về mức độ hệ trọng của vấn đề. Tại phương Tây, hoạt động chính trị hiện nay thường có xu hướng thiên về tính thực dụng và cái gọi là “chính trị thỏa hiệp” trên những điểm cụ thể, tránh việc đối thoại về các nguyên tắc nền tảng – vì sợ rằng việc đó có thể làm lung lay những thỏa thuận vốn mong manh giữa các đảng phái, liên minh hay khối liên kết. Tuy nhiên, phải chăng những thỏa hiệp ấy nên được thiết lập trên nền tảng sự minh định nguyên tắc, sự tôn trọng các giá trị cốt lõi, và sự sáng rõ của các tiền đề cơ bản? “Nếu không tồn tại một chân lý tối hậu làm định hướng cho hành động chính trị, thì ý tưởng và xác tín có thể dễ dàng bị biến thành công cụ phục vụ quyền lực. Một nền dân chủ không có giá trị dễ dàng biến thành chủ nghĩa toàn trị – công khai hoặc tinh vi – như lịch sử từng chứng minh.”[24]Chức năng lập pháp gắn liền với trách nhiệm chính trị; vì vậy, các nhà lập pháp có nghĩa vụ giám sát không chỉ trên bình diện nguyên tắc mà cả trong thực tiễn áp dụng, nhằm tránh sự suy đồi – với những hệ quả nghiêm trọng cả trong hiện tại lẫn tương lai – của mối tương quan giữa luật luân lý và luật dân sự, đồng thời bảo vệ chiều kích giáo dục – văn hóa của hệ thống pháp luật[25]. Cách hữu hiệu nhất để bảo vệ lợi ích công cộng không nằm ở các nhượng bộ mang tính mị dân dành cho các nhóm vận động hành lang cổ vũ cho các hình thức liên hệ sống chung ngoài hôn nhân, mà là ở việc thúc đẩy cách mạnh mẽ và có hệ thống các chính sách gia đình toàn diện, lấy gia đình được thiết lập trên nền tảng hôn nhân làm trung tâm và động lực của chính sách xã hội, đồng thời bảo đảm phạm vi đầy đủ các quyền của gia đình[26]. Liên quan đến vấn đề này, Tòa Thánh đã dành một vị trí ưu tiên trong bản “Hiến chương về Quyền của Gia đình”[27], vượt xa cách tiếp cận thuần trợ cấp của Nhà nước.
Nền tảng nhân học về sự khác biệt giữa hôn nhân và “liên hệ sống chung ngoài hôn nhân”
19. Hôn nhân được thiết lập trên những tiền đề nhân học rõ ràng, giúp phân biệt nó với các hình thức sống chung khác; và – vượt lên trên bình diện hành động cụ thể hay thực trạng thực tế – hôn nhân được neo giữ trong chính bản thể cá vị của người nam và người nữ.
Trong số những tiền đề nhân học nền tảng của hôn nhân, có thể kể đến: sự bình đẳng giữa người nữ và người nam, bởi “cả hai đều là nhân vị như nhau”[28] – dù theo cách khác biệt; đặc tính bổ túc của hai giới[29], từ đó phát sinh xu hướng tự nhiên hướng về nhau và dẫn đến việc sinh thành con cái; khả năng yêu thương người khác chính nhờ sự khác biệt và bổ túc giới tính, đến mức “tình yêu này được diễn tả và hoàn thiện cách đặc biệt qua việc thực thi những hành vi riêng biệt của đời sống hôn nhân”[30]; khả năng – vốn gắn liền với tự do – thiết lập mối liên hệ ổn định và vĩnh viễn, tức là một mối liên hệ mang tính công bằng[31]; và sau cùng, chiều kích xã hội của đời sống hôn nhân và gia đình, vốn là nơi đầu tiên của việc giáo dục và mở ra với xã hội qua các mối liên hệ huyết tộc – những mối liên hệ này góp phần hình thành căn tính của nhân vị con người[32].
20. Nếu chấp nhận khả năng có một tình yêu đặc thù giữa người nam và người nữ, thì rõ ràng tình yêu ấy – do chính bản chất của nó – có xu hướng dẫn đến: sự thân mật và tính độc quyền, việc sinh thành con cái, và việc hình thành một dự phóng chung cho đời sống. Khi người ta muốn điều đó, và muốn theo cách thức mà người kia có quyền đòi hỏi nó, thì khi ấy ta có thể nói đến một sự trao hiến và đón nhận đích thực giữa người nữ và người nam, vốn tạo nên sự hiệp thông hôn nhân. Trong sự hiệp thông hôn nhân, có một sự trao hiến và đón nhận lẫn nhau của nhân vị con người. “Vì thế, amor coniugalis (tình yêu đôi lứa) không chỉ hoặc chủ yếu là cảm xúc; đúng hơn, nó là một cam kết đối với người kia, một cam kết được đảm nhận bằng một hành vi ý chí rõ ràng. Chính điều này làm cho amor (tình yêu) ấy trở thành coniugalis (đôi lứa, vợ chồng). Một khi cam kết ấy được trao ban và đón nhận qua sự ưng thuận, thì tình yêu trở thành vợ chồng, và không bao giờ đánh mất đặc tính ấy”[33]. Trong truyền thống Kitô giáo Tây phương, điều này được gọi là hôn nhân.
21. Vì thế, hôn nhân là một dự định chung ổn định, phát sinh từ sự trao hiến tự do và trọn vẹn của tình yêu vợ chồng phong nhiêu – vốn thuộc về nhân đức công bình. Chiều kích công bình, vốn là một định chế xã hội nguyên thủy (và là nền tảng hình thành xã hội), đã gắn liền với chính thực tại hôn nhân: “họ hoàn toàn tự do cử hành hôn nhân, sau khi đã tự do chọn lựa nhau cách tương xứng; nhưng vào khoảnh khắc thực hiện hành vi ấy, họ thiết lập một trạng thái cá vị, trong đó tình yêu trở thành một nghĩa vụ, mang giá trị pháp lý”[34]. Xét về thực tế xã hội, có thể tồn tại những cách sống tình dục khác – thậm chí trái với khuynh hướng tự nhiên – những hình thức sống chung khác, những mối quan hệ bạn bè khác – có hoặc không dựa trên sự khác biệt giới tính – cũng như những phương thức khác để đưa con cái vào đời. Tuy nhiên, gia đình được thiết lập trên nền tảng hôn nhân là định chế duy nhất bao hàm toàn bộ những yếu tố đó – một cách đồng thời và ngay từ khởi đầu.
22. Do đó, cần phải nhấn mạnh tính nghiêm trọng và sự không thể thay thế của một số nguyên tắc nhân học liên quan đến mối quan hệ giữa người nam và người nữ – những nguyên tắc vốn là nền tảng cho sự chung sống của con người, và càng thiết yếu hơn nữa trong việc bảo vệ phẩm giá của từng cá nhân. Hạt nhân trung tâm và yếu tố cốt lõi của các nguyên tắc này chính là tình yêu vợ chồng (amore coniugale) giữa hai người có phẩm giá bình đẳng, nhưng khác biệt và bổ sung cho nhau trong đặc tính giới tính của họ. Bản chất của hôn nhân như một thực tại vừa mang tính tự nhiên vừa mang tính nhân văn đang bị đặt vào vòng đe dọa, và lợi ích của toàn xã hội cũng đang bị ảnh hưởng nghiêm trọng. “Như ai cũng biết, ngày nay, không chỉ các đặc điểm và mục tiêu của hôn nhân đang bị chất vấn, mà ngay cả giá trị và tính thiết yếu của thể chế này cũng đang bị nghi ngờ. Dù tránh những khái quát hóa thiếu chính xác, ta không thể phủ nhận hiện tượng ngày càng phổ biến của các mối liên hệ sống chung ngoài hôn nhân (xem Familiaris consortio, số 18), cũng như những chiến dịch vận động mạnh mẽ nhằm trao cho các mối quan hệ đó – kể cả những quan hệ giữa những người cùng giới tính – một địa vị mang tính hôn nhân.” [35]
Đây là một nguyên tắc nền tảng: để tình yêu vợ chồng trở thành tình yêu chân thực và tự do, tình yêu ấy cần được chuyển hóa thành một tình yêu mang tính công bằng, thông qua hành vi lựa chọn tự do – đó là sự ưng thuận trong hôn nhân. “Dưới ánh sáng của những nguyên tắc này, ta có thể xác lập và thấu hiểu sự khác biệt thiết yếu giữa một mối quan hệ sống chung thuần túy không đăng ký kết hôn – dù có thể bắt nguồn từ tình yêu – và hôn nhân, nơi tình yêu được cụ thể hóa thành cam kết không chỉ mang tính đạo đức, mà còn mang tính pháp lý nghiêm ngặt. Chính sự ràng buộc mà hai người cùng nhau cam kết trở thành nguồn lực củng cố cho tình yêu đã khơi nguồn cho nó, giúp tình yêu ấy duy trì bền vững vì lợi ích của người bạn đời, của con cái, và của toàn xã hội.”[36]
Thật vậy, hôn nhân – nền tảng hình thành nên gia đình – không phải là một “cách thức để sống đời sống tính dục trong đôi lứa”; nếu chỉ như thế, thì hôn nhân sẽ chỉ là một lựa chọn trong số nhiều hình thức quan hệ có thể tồn tại[37]. Hôn nhân cũng không đơn thuần là sự thể hiện của một tình yêu cảm xúc giữa hai người – điều vốn là đặc điểm phổ quát của mọi tình bạn chân thành. Hôn nhân vượt lên trên những điều đó: nó là sự hợp nhất giữa một người nữ và một người nam – với toàn bộ bản thể nam tính và nữ tính của họ. Mặc dù sự hợp nhất này được thiết lập bằng hành động tự do (libera) của cả hai bên – tức là việc tự nguyện trao lời cam kết kết hôn – thì nội dung đặc trưng của nó lại xuất phát từ chính cấu trúc bản thể của con người: người nam và người nữ, được tạo ra để trao ban cho nhau và cùng nhau truyền sinh. Sự trao ban chính mình trong toàn bộ chiều kích bổ sung giữa người nữ và người nam, cùng với ý chí muốn thuộc về nhau một cách công bằng, được gọi là tính chất phu thê; và nhờ đó, những người kết hôn trở thành vợ chồng: “Sự hiệp thông vợ chồng ấy bén rễ nơi sự bổ túc tự nhiên giữa người nam và người nữ, và được nuôi dưỡng bởi ý chí cá nhân của đôi vợ chồng khi họ chọn cùng nhau chia sẻ toàn bộ dự phóng sống – gồm cả những gì họ có lẫn những gì họ là (con người thật của họ). Vì thế, sự hiệp thông này vừa là hoa trái, vừa là biểu hiện của một nhu cầu sâu xa mang tính nhân văn.”[38]
Mức độ nghiêm trọng gia tăng khi hôn nhân bị xem là tương đương với các mối quan hệ đồng tính
23. Chân lý về tình yêu vợ chồng giúp chúng ta hiểu rõ hơn những hệ quả xã hội nghiêm trọng mà việc thể chế hóa các mối quan hệ đồng tính có thể mang lại: “Điều này cũng cho thấy sự phi lý trong việc gán cho sự chung sống giữa người đồng tính một thực tại mang tính phu thê (coniugale). Trước tiên, có sự bất khả khách quan trong việc làm cho sự kết hợp ấy sinh hoa trái qua việc truyền sinh – theo chương trình mà Thiên Chúa đã khắc ghi nơi chính cấu trúc của con người. Ngoài ra, sự thiếu vắng những điều kiện cần thiết cho sự bổ sung liên vị giữa người nam và người nữ mà Đấng Tạo Hóa đã thiết lập – cả trên bình diện sinh học-thể lý lẫn phương diện tâm lý – cũng là một trở ngại đáng kể”[39]. Việc giản lược hôn nhân thành một thực thể tương đương với mối quan hệ đồng tính là điều phi lý, trái với cảm thức nhân học nền tảng[40]. Khi các mối quan hệ đồng tính yêu cầu được công nhận như các liên hệ sống chung ngoài hôn nhân, thì các hệ quả đạo đức và pháp lý liên quan sẽ trở nên đặc biệt nghiêm trọng.[41] “Các ‘liên hệ sống chung ngoài hôn nhân’ giữa người đồng tính, thay vì vậy, là một biến dạng đáng tiếc của những gì vốn phải là một sự hiệp thông của tình yêu và sự sống giữa một người nam và một người nữ, trong sự trao ban tương hỗ rộng mở với sự sống.”[42] Càng đáng lo ngại hơn nữa là yêu sách muốn đánh đồng những mối quan hệ ấy với “hôn nhân hợp pháp”, như một số sáng kiến gần đây đang đòi hỏi.[43] Thêm vào đó, các đề xuất muốn hợp pháp hóa việc nhận con nuôi trong khuôn khổ các mối quan hệ đồng tính lại càng làm gia tăng mối nguy tiềm tàng.[44] “Việc liên kết giữa hai người đàn ông hoặc hai người phụ nữ không thể hình thành một gia đình đúng nghĩa, và càng không thể gán cho sự kết hợp đó quyền nhận nuôi trẻ em không có gia đình.”[45] Việc khẳng định tầm quan trọng xã hội của chân lý về tình yêu vợ chồng – và nhấn mạnh rằng việc công nhận hoặc đánh đồng hôn nhân với các mối quan hệ đồng tính là một sai lầm nghiêm trọng – không hề mang ý nghĩa phân biệt đối xử đối với những người này. Chính lợi ích chung của xã hội đòi hỏi rằng luật pháp phải công nhận, thúc đẩy và bảo vệ sự kết hợp hôn nhân như nền tảng của gia đình, một nền tảng sẽ bị suy yếu nếu không được duy trì đúng đắn[46].
IV – Công lý và thiện ích xã hội của gia đình
Gia đình, một thiện ích xã hội cần được bảo vệ bằng công lý
24. Hôn nhân và gia đình không chỉ là một thực tại xã hội, mà là một thiện ích xã hội hàng đầu: “Gia đình luôn thể hiện một chiều kích mới của điều thiện dành cho con người, và vì thế, phát sinh một trách nhiệm chưa từng có. Đó là trách nhiệm đối với một thiện ích chung nổi bật, trong đó bao hàm điều thiện của con người: của từng thành viên trong cộng đồng gia đình; một thiện ích chắc chắn là ‘khó đạt được’ (bonum arduum), nhưng đầy cuốn hút” [47]. Thật vậy, trên thực tế, không phải mọi cặp vợ chồng hay mọi gia đình đều phát triển trọn vẹn mọi khía cạnh của điều thiện cá nhân và xã hội.[48] Vì thế, xã hội cần can thiệp, bằng cách cung cấp cho họ những phương tiện cần thiết một cách dễ tiếp cận nhất, để hỗ trợ việc phát triển các giá trị vốn thuộc về họ. Bởi lẽ: “Cần phải nỗ lực hết sức để gia đình được công nhận là một xã hội căn bản (società primordiale) và, theo một nghĩa nào đó, ‘có chủ quyền’! ‘Chủ quyền’ của gia đình là điều không thể thiếu đối với lợi ích của xã hội”[49].
Các giá trị xã hội nền tảng cần được cổ vũ
25. Hiểu theo cách này, hôn nhân và gia đình là một thiện ích đối với xã hội, bởi vì chúng bảo vệ một giá trị quý báu cho chính các đôi vợ chồng (per gli stessi coniugi). Thật vậy, “gia đình, với tư cách là một xã hội tự nhiên, tồn tại trước Nhà nước và bất kỳ cộng đồng nào khác, và có những quyền riêng không thể bị tước bỏ”[50]. Một mặt, chiều kích xã hội của tình trạng hôn nhân hàm chứa nguyên tắc về sự bảo đảm pháp lý: việc trở thành vợ chồng là một thực tại thuộc về bản thể – không chỉ là hành động – và phẩm giá của dấu chỉ mới này về căn tính cá nhân cần được công nhận công khai; đồng thời, giá trị mà nó mang lại cho xã hội cần được đánh giá đúng mức[51]. Rõ ràng, trật tự tốt đẹp của xã hội được củng cố khi hôn nhân và gia đình được nhìn nhận đúng như bản chất ổn định vốn có của chúng[52]. Hơn nữa, nơi người nam và người nữ, sự trao hiến toàn diện trong tiềm năng làm cha và làm mẹ tạo nên một sự kết hợp phát sinh giữa cha mẹ và con cái – một mối liên hệ độc quyền và vĩnh viễn. Mối liên hệ ấy diễn tả một niềm tin vô điều kiện, và chính niềm tin ấy trở thành sức mạnh và sự phong phú cho tất cả mọi người[53].
26. Một mặt, phẩm giá của con người đòi hỏi rằng con người phải được sinh ra từ cha mẹ kết hợp trong hôn nhân – từ một sự kết hợp mật thiết, toàn diện, tương hỗ và vĩnh viễn, vốn là điều tự nhiên phát sinh từ tư cách vợ chồng. Vì thế, đây là một điều thiện ích dành cho con cái (per i figli). Nguồn gốc này là hình thức duy nhất thực sự có khả năng bảo vệ nguyên tắc về căn tính của con cái, không chỉ từ góc độ di truyền hay sinh học, mà còn từ góc độ tiểu sử và lịch sử cá nhân[54]. Mặt khác, hôn nhân tạo nên môi trường nhân văn và nhân tính hóa thuận lợi nhất để đón nhận con cái: một môi trường dễ dàng bảo đảm sự an toàn về mặt tình cảm, sự thống nhất và tính liên tục cao hơn trong tiến trình hội nhập xã hội và giáo dục. “Sự kết nối giữa người mẹ và đứa con được thụ thai, cùng với vai trò không thể thay thế của người cha, đòi hỏi rằng người con phải được đón nhận trong một gia đình, một nơi mà trong khả năng có thể, bảo đảm sự hiện diện của cả cha lẫn mẹ. Sự đóng góp đặc thù mà họ mang lại cho gia đình, và thông qua gia đình cho xã hội, xứng đáng được quý trọng ở mức cao nhất” [55]. Cuối cùng, sự liên kết không gián đoạn giữa đời sống vợ chồng, tình mẫu tử/phụ tử, và các mối quan hệ họ hàng huyết tộc (tình cha con, tình huynh đệ, v.v.) giúp xã hội tránh được nhiều vấn đề nghiêm trọng phát sinh khi chuỗi liên kết giữa các yếu tố này bị đứt gãy và mỗi yếu tố vận hành một cách độc lập với các yếu tố còn lại[56].
27. Ngay cả đối với các thành viên khác trong gia đình (gli altri membri della famiglia), sự kết hợp hôn nhân như một thực tại xã hội cũng là một điều thiện ích. Thật vậy, trong một gia đình được hình thành từ mối dây hôn nhân, không chỉ các thế hệ mới được đón nhận và học cách tham gia vào các công việc chung, mà cả các thế hệ trước (như ông bà) cũng có cơ hội đóng góp vào sự phong phú chung: truyền lại kinh nghiệm sống, cảm nhận giá trị phục vụ của mình một lần nữa, khẳng định phẩm giá trọn vẹn của bản thân khi được trân trọng và yêu thương vì chính con người họ, đồng thời tham gia vào cuộc đối thoại giữa các thế hệ, vốn thường rất phong phú. Thật vậy, “gia đình là nơi các thế hệ khác nhau gặp gỡ và hỗ trợ nhau lớn lên trong sự khôn ngoan nhân loại, đồng thời hài hòa các quyền của cá nhân với những đòi hỏi khác của đời sống xã hội” [57]. Đồng thời, những người cao tuổi có thể nhìn về tương lai với niềm tin và sự an tâm, biết rằng họ sẽ được bao bọc và chăm sóc bởi chính những người mà họ đã chăm sóc suốt bao năm tháng. Về điểm này, chúng ta biết rằng khi một gia đình thực sự chu toàn vai trò của mình, thì chất lượng sự quan tâm dành cho người già – ít nhất ở một số khía cạnh – không thể bị thay thế bởi các cơ sở bên ngoài môi trường sống của họ, cho dù những cơ sở ấy có tuyệt vời đến mấy và được trang bị kỹ thuật tiên tiến đến đâu đi nữa[58].
28. Ta cũng có thể xét đến những thiện ích dành cho toàn thể xã hội (l’insieme della società) phát sinh từ sự hiệp thông vợ chồng – nền tảng của hôn nhân và là nguồn gốc của gia đình. Chẳng hạn như: Nguyên tắc xác định căn tính công dân; Nguyên tắc về sự thống nhất và ổn định của các mối quan hệ huyết tộc, vốn là nền tảng cho những liên hệ đầu tiên trong đời sống xã hội; Nguyên tắc truyền đạt điều hay lẽ phải và các giá trị văn hóa; Nguyên tắc bổ trợ: sự biến mất của gia đình buộc Nhà nước phải thay thế gia đình trong những chức năng vốn thuộc bản chất của gia đình; Nguyên tắc tiết kiệm, kể cả trong lĩnh vực thủ tục hành chính: khi gia đình tan vỡ, Nhà nước buộc phải gia tăng các can thiệp để trực tiếp giải quyết những vấn đề lẽ ra phải được xử lý trong phạm vi tư nhân – với chi phí cao cả về mặt tâm lý lẫn kinh tế. Cũng cần nhắc lại rằng: “Gia đình không chỉ là một đơn vị pháp lý, xã hội và kinh tế, mà còn là một cộng đồng yêu thương và liên đới – một cộng đồng đặc biệt thích hợp để giáo dục và truyền đạt các giá trị văn hóa, đạo đức, xã hội, tinh thần và tôn giáo – vốn thiết yếu cho sự phát triển và hạnh phúc của các thành viên cũng như của toàn xã hội”[59]. Cuối cùng, thay vì góp phần làm phong phú tự do cá nhân, sự tan rã của gia đình lại khiến các cá nhân trở nên dễ tổn thương và yếu đuối trước quyền lực của Nhà nước – vốn ngày càng cần đến một hệ thống pháp lý phức tạp hơn. Chính điều đó lại khiến Nhà nước trở nên nghèo nàn hơn, về cả chiều kích xã hội lẫn chiều kích nhân học.
Xã hội và Nhà nước phải bảo vệ và thăng tiến gia đình được xây dựng trên nền tảng hôn nhân
29. Tóm lại, việc thăng tiến con người, xã hội và đời sống vật chất của gia đình được xây dựng trên nền tảng hôn nhân, cùng với việc bảo vệ pháp lý các yếu tố cấu thành gia đình trong tính thống nhất của nó, là một thiện ích không chỉ dành cho từng thành viên trong gia đình, mà còn cho: Cấu trúc và sự vận hành tốt đẹp của các mối quan hệ giữa các cá nhân; Sự cân bằng quyền lực và bảo đảm các quyền tự do; Lợi ích giáo dục và căn tính công dân; Việc phân bổ chức năng giữa các thiết chế xã hội khác nhau. “Vai trò của gia đình trong việc xây dựng nền văn hóa sự sống là điều mang tính quyết định và không thể thay thế (determinante e insostituibile)”[60]. Đừng quên rằng: nếu trong một số hoàn cảnh và khía cạnh, cuộc khủng hoảng của gia đình là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự can thiệp ngày càng nhiều của Nhà nước vào những lĩnh vực vốn thuộc về gia đình, thì cũng không sai khi nói rằng – trong nhiều trường hợp khác và dưới những khía cạnh khác – chính các sáng kiến lập pháp đã góp phần gây ra khó khăn, thậm chí là sự đổ vỡ của nhiều cuộc hôn nhân và gia đình. “Kinh nghiệm của nhiều nền văn hóa qua dòng lịch sử đã cho thấy rằng xã hội cần phải công nhận và bảo vệ định chế gia đình (...) Xã hội – đặc biệt là Nhà nước và các Tổ chức Quốc tế – phải bảo vệ gia đình bằng những biện pháp mang tính chính trị, kinh tế, xã hội và pháp lý, nhằm củng cố sự hiệp nhất và ổn định của gia đình để gia đình có thể thực thi vai trò đặc thù của mình”[61].
Ngày nay, hơn bao giờ hết, gia đình và xã hội cần dành sự quan tâm đúng mức đến những vấn đề mà hôn nhân và gia đình đang phải đối mặt – trong sự tôn trọng tuyệt đối đối với quyền tự do của họ. Để đạt được mục tiêu này, cần xây dựng một hệ thống pháp luật nhằm bảo vệ các yếu tố thiết yếu của gia đình mà không làm suy giảm quyền tự do quyết định của họ, đặc biệt trong các vấn đề như: Công việc của người phụ nữ khi không tương thích với vai trò làm vợ và làm mẹ[62]; “Văn hóa thành công” khiến những người đang hoạt động nghề nghiệp khó dung hòa nghĩa vụ công việc với đời sống gia đình[63]; Quyết định đón nhận con cái, vốn là lựa chọn mà các đôi vợ chồng phải đưa ra theo lương tâm của mình[64]; Việc bảo vệ tính bền vững mà các cặp vợ chồng kết hôn cầu mong được đáp ứng thỏa đáng[65]; Quyền tự do tôn giáo, phẩm giá và sự bình đẳng về quyền lợi[66]; Các nguyên tắc và lựa chọn giáo dục con cái theo ý muốn của cha mẹ[67]; Các chính sách thuế và quy định tài sản (thừa kế, nhà ở, v.v.); Việc bảo vệ quyền tự trị hợp pháp của gia đình; Và cuối cùng: sự tôn trọng và hỗ trợ các sáng kiến của gia đình trong lĩnh vực chính trị, đặc biệt là những sáng kiến liên quan đến môi trường sống của gia đình[68]. Từ đó phát sinh nhu cầu phải thiết lập một sự phân biệt rõ ràng trên bình diện xã hội giữa các hiện tượng có bản chất khác nhau – cả về mặt pháp lý lẫn đóng góp của chúng cho thiện ích chung – và phải đối xử với chúng một cách phù hợp. “Giá trị thể chế của hôn nhân cần được các cơ quan công quyền nâng đỡ; tình trạng của các cặp đôi không kết hôn không nên được đối xử tương đương với hôn nhân được thiết lập hợp pháp”[69].
V – Hôn nhân Kitô giáo và liên hệ sống chung ngoài hôn nhân
Hôn nhân Kitô giáo và chủ nghĩa đa nguyên xã hội
30. Từ vài năm nay, Giáo hội liên tục tái khẳng định niềm tin cần dành cho con người – vào tự do, phẩm giá và các giá trị của họ – đồng thời xác tín nơi niềm hy vọng vào hành động cứu độ của Thiên Chúa trong thế giới, một hành động nâng đỡ con người vượt qua mọi yếu đuối. Đồng thời, Giáo hội cũng bày tỏ mối quan ngại sâu sắc trước những cuộc tấn công ngày càng gia tăng nhằm vào con người và phẩm giá của họ, đồng thời chỉ ra những giả định mang tính ý thức hệ đặc trưng của nền văn hóa được gọi là “hậu hiện đại”, vốn làm lu mờ các giá trị phát xuất từ đòi hỏi của chân lý về con người và khiến cho việc sống các giá trị ấy trở nên khó khăn. “Đây không còn là những phản bác rời rạc và ngẫu nhiên, mà là một sự chất vấn toàn diện và có hệ thống đối với di sản luân lý, dựa trên những quan niệm nhân học và đạo đức nhất định. Ở cội nguồn của chúng là ảnh hưởng ngấm ngầm – ít nhiều tiềm ẩn – của những luồng tư tưởng nhất quyết tách rời tự do của con người khỏi mối liên hệ thiết yếu và nền tảng của nó với chân lý”[70].
Khi tự do bị tách rời khỏi chân lý, “mọi quy chiếu đến các giá trị chung và một chân lý tuyệt đối cho tất cả đều bị mất đi: đời sống xã hội rơi vào vùng cát lún của chủ nghĩa tương đối toàn diện. Khi đó, mọi thứ đều có thể được thỏa hiệp, mọi thứ đều có thể bị thương lượng – kể cả quyền cơ bản đầu tiên, đó là quyền được sống”[71]. Lời cảnh báo này chắc chắn có thể được áp dụng cho thực tại của hôn nhân và gia đình – vốn là nguồn duy nhất và môi trường nhân văn trọn vẹn để thực hiện quyền căn bản ấy. Điều này xảy ra khi người ta dung túng “một sự biến dạng trong ý niệm và trải nghiệm về tự do, khi tự do không còn được hiểu là khả năng thực hiện chân lý trong kế hoạch của Thiên Chúa về hôn nhân và gia đình, mà trở thành một hình thức khẳng định bản thân một cách độc lập, không ít lần chống lại người khác, nhằm phục vụ cho phúc lợi ích kỷ của chính mình” [72].
31. Tương tự như vậy, ngay từ thuở ban đầu, cộng đoàn Kitô hữu đã sống thực tại của hôn nhân Kitô giáo như một dấu chỉ hữu hiệu của sự kết hợp giữa Đức Kitô và Hội Thánh của Người. Chính Đức Giêsu Kitô đã nâng hôn nhân lên hàng một biến cố cứu độ trong trật tự mới được thiết lập trong nhiệm cục Cứu Chuộc. Nói cách khác, hôn nhân là một bí tích của Giao Ước Mới[73]– một yếu tố thiết yếu để hiểu nội dung và tầm mức của giao ước hôn nhân giữa hai người đã lãnh nhận bí tích Rửa Tội. Về phần mình, Huấn quyền của Hội Thánh đã xác định rằng: “Bí tích Hôn phối có điểm đặc thù so với các bí tích khác, đó là bí tích của một thực tại vốn đã hiện hữu trong nhiệm cục Tạo Dựng, chính là giao ước hôn nhân được Đấng Tạo Hóa thiết lập ngay từ nguyên thủy”[74].
32. Trong một xã hội thường bị phi Kitô hóa và xa rời các giá trị chân lý về con người, ngày nay cần phải nhấn mạnh đến nội dung của “giao ước hôn nhân, qua đó người nam và người nữ thiết lập với nhau một cộng đoàn mọi ngày suốt đời, vốn tự bản chất được định hướng cho thiện ích của đôi bạn và cho việc sinh sản cũng như giáo dục con cái”[75], như đã được Thiên Chúa thiết lập “ngay từ nguyên thủy”[76] trong trật tự tự nhiên của công trình tạo dựng. Điều này đòi hỏi một sự suy nghĩ trong sáng, không chỉ từ phía những tín hữu đang thực hành đức tin, mà còn từ những người hiện đang xa rời đời sống tôn giáo, những người không có đức tin, hoặc theo những xác tín khác – nói ngắn gọn, từ mọi con người, cả người nam hay người nữ, là thành viên của một cộng đồng dân sự và có trách nhiệm đối với thiện ích chung. Cần phải ghi nhớ bản chất của gia đình được xây dựng trên nền tảng hôn nhân, vốn không chỉ mang tính lịch sử hay tùy thuộc hoàn cảnh, mà còn mang chiều kích hữu thể học – vượt lên trên mọi biến đổi của thời đại, địa phương và văn hóa – và hơn nữa chiều kích công lý phát sinh từ đó.
Quá trình thế tục hóa gia đình ở phương Tây
32. Ban đầu, quá trình thế tục hóa của thể chế hôn nhân chủ yếu và gần như chỉ liên quan đến nghi thức kết hôn, tức là cách thức cử hành hôn lễ, ít nhất là ở các quốc gia phương Tây có truyền thống Công giáo. Tuy nhiên, cả trong ý thức dân gian và trong các hệ thống pháp luật thế tục, những nguyên tắc nền tảng của hôn nhân vẫn tồn tại trong một thời gian, chẳng hạn như giá trị quý báu của tính bất khả phân ly trong hôn nhân, đặc biệt là sự bất khả phân ly tuyệt đối của hôn nhân bí tích giữa hai người đã được rửa tội, đã thành sự (ratum) và hoàn hợp (consumatum)[77]. Việc phổ biến rộng rãi trong các hệ thống pháp luật khác nhau của cái mà Công đồng Vaticanô II gọi là “dịch bệnh ly hôn” đã dẫn đến sự lu mờ dần trong ý thức xã hội về giá trị vĩ đại của tính bất khả phân ly mà nhân loại đã sống qua nhiều thế kỷ. Giáo hội sơ khai không có ý định thần thánh hóa hay Kitô hóa quan niệm La Mã về hôn nhân, mà là trao cho thể chế này ý nghĩa của nguồn gốc sáng tạo của nó, theo ý muốn được Đức Giêsu Kitô mặc khải. Không nghi ngờ gì, Giáo hội sơ khai đã sớm nhận thức rõ rằng bản chất tự nhiên của hôn nhân đã được Đấng Tạo Hóa thiết lập ngay từ nguyên thủy như một dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa dành cho dân Ngài, và sau khi đến thời viên mãn, như một dấu chỉ của tình yêu của Đức Kitô dành cho Giáo hội của Ngư. Thật vậy, điều đầu tiên mà Giáo hội thực hiện, dưới sự hướng dẫn của Tin Mừng và những lời dạy rõ ràng của Đức Kitô, Chúa của mình, là đưa hôn nhân trở về với những nguyên lý ban đầu, ý thức rằng “Chính Thiên Chúa là tác giả của hôn nhân, được Ngài ban tặng nhiều giá trị và mục đích”[78]. Mặt khác, Giáo hội cũng ý thức rằng thể chế tự nhiên này “có tầm quan trọng tối thượng đối với sự tiếp nối của nhân loại, sự phát triển cá nhân và vận mệnh vĩnh cửu của từng thành viên trong gia đình, đối với phẩm giá, sự ổn định, an bình và thịnh vượng của chính gia đình và toàn thể xã hội loài người...”[79]. Thông thường, những người kết hôn theo các hình thức được quy định (bởi Giáo hội hoặc Nhà nước, tùy trường hợp) đều có khả năng và mong muốn thiết lập một cuộc hôn nhân thực sự. Xu hướng kết hợp vợ chồng là điều gắn liền với bản chất con người. Từ quyết định này, phát sinh khía cạnh pháp lý của giao ước hôn nhân, cũng như sự hình thành mối dây liên kết vợ chồng đích thực.
Hôn nhân: thể chế của tình yêu phu thê, khác biệt căn bản với các hình thức sống chung khác
33. Thực tại tự nhiên của hôn nhân được Giáo hội xem xét một cách nghiêm túc qua Giáo luật[80]. Giáo luật quy định tình trạng hôn nhân của những người đã lãnh nhận bí tích Rửa Tội, cả trong giai đoạn in fieri (đang hình thành) lẫn trong tình trạng lâu dài, nơi các mối quan hệ vợ chồng và gia đình được hình thành. Trong khía cạnh này, thẩm quyền của Giáo hội đối với hôn nhân mang tính quyết định và đóng vai trò là sự bảo vệ đích thực các giá trị gia đình. Tuy nhiên, những nguyên lý nền tảng về tình trạng hôn nhân – đặc biệt liên quan đến tình yêu phu thê và bản chất bí tích của hôn nhân – thường chưa được hiểu thấu đáo hoặc được tôn trọng đúng mức trong đời sống xã hội và mục vụ.
34. Thường người ta quả quyết rằng: tình yêu là nền tảng của hôn nhân, và hôn nhân chính là một cộng đoàn của sự sống và yêu thương. Tuy nhiên, điều này lại hiếm khi được nói rõ rằng hôn nhân là một định chế – một hình thức thiết chế pháp lý – qua đó người ta dễ dàng bỏ qua chiều kích công bình, vốn gắn liền chặt chẽ với sự đồng thuận. Hôn nhân là một định chế. Việc không nhận thức được bản chất này dễ dẫn đến sự nhầm lẫn sâu sắc giữa hôn nhân Kitô giáo và những mối liên hệ sống chung ngoài hôn nhân: những người chọn sống chung không hôn thú có thể tuyên bố rằng mối liên kết của họ dựa trên "tình yêu" [nhưng đó là thứ tình yêu mà Công đồng Vaticanô II mô tả như thứ tình yêu "được gọi là tự do" (sic dicto libero)], và rằng họ đang cùng nhau xây dựng một cộng đồng của sự sống và yêu thương. Tuy nhiên, cộng đồng này được phân biệt về bản chất bởi cộng đồng sự sống và yêu thương vợ chồng (communitas vitae et amoris coniugalis), đó mới thực sự là hôn nhân[81].
35. Liên quan đến những nguyên lý nền tảng về bản chất bí tích của hôn nhân, vấn đề trở nên phức tạp hơn. Các mục tử của Giáo hội cần lưu tâm đến kho tàng ân sủng phong phú phát xuất từ bản chất bí tích của hôn nhân Kitô giáo, cũng như ảnh hưởng sâu xa của nó đối với các mối quan hệ gia đình được xây dựng trên nền tảng hôn nhân. Thiên Chúa đã muốn cho giao ước hôn nhân nguyên thủy – tức là hôn nhân trong công trình Sáng Tạo – trở thành dấu chỉ vĩnh viễn của sự kết hợp giữa Đức Kitô và Hội Thánh, và như thế, được nâng lên thành bí tích của Giao Ước Mới. Vấn đề nằm ở chỗ cần hiểu đúng rằng tính bí tích này không phải là yếu tố thêm vào hay tách biệt với bản chất của hôn nhân. Trái lại, chính hôn nhân – vốn được Đấng Tạo Hóa thiết lập là bất khả phân ly – đã được nâng lên hàng bí tích nhờ hành động cứu chuộc của Đức Kitô, mà không làm biến dạng chút nào bản chất tự nhiên của nó. Việc không nhận ra tính độc đáo của bí tích này so với các bí tích khác thường dẫn đến những hiểu lầm, làm lu mờ ý niệm về hôn nhân bí tích. Khái niệm này đặc biệt quan trọng trong việc chuẩn bị cho hôn nhân: những nỗ lực đáng khen nhằm giúp các đôi bạn chuẩn bị cử hành bí tích này sẽ trở nên vô ích nếu họ không hiểu rõ tính bất khả phân ly tuyệt đối của hôn nhân mà họ sắp kết ước. Những người đã lãnh nhận bí tích Rửa Tội không đến trước Giáo hội chỉ để tổ chức một lễ hội theo nghi thức đặc biệt; họ đến để kết hôn trọn đời, trong tư cách là bí tích của Giao Ước Mới. Qua bí tích này, họ được tham dự vào mầu nhiệm kết hợp giữa Đức Kitô và Hội Thánh, và diễn tả sự hiệp thông thân mật và bất khả phân ly của chính họ[82].
VI – Những định hướng Kitô giáo
Lời công bố căn bản cho vấn đề: “Thuở ban đầu không phải như thế”
36. Cộng đoàn Kitô hữu đang cảm nhận một sự chất vấn sâu xa từ hiện tượng các liên hệ sống chung ngoài hôn nhân. Những mối liên kết hoàn toàn không có ràng buộc pháp lý – cả về mặt dân sự lẫn tôn giáo – ngày càng trở nên phổ biến, và Giáo hội cần dành cho thực trạng này một sự chăm sóc mục vụ thích đáng[83]. Người tín hữu, không chỉ dựa vào lý trí, mà – trên hết – nhờ vào “ánh sáng rực rỡ của chân lý” đến từ đức tin, có khả năng gọi đúng bản chất của sự việc: điều thiện là thiện, điều ác là ác. Trong bối cảnh hiện nay – vốn thấm đẫm chủ nghĩa tương đối và có khuynh hướng làm lu mờ mọi khác biệt, kể cả những khác biệt mang tính bản chất – giữa hôn nhân và các liên hệ sống chung ngoài hôn thú, cần thể hiện một sự khôn ngoan lớn lao và sự tự do can đảm để tránh rơi vào tình trạng mập mờ hoặc thỏa hiệp, với ý thức rằng: “cuộc khủng hoảng nguy hiểm nhất có thể đe dọa con người” chính là sự lẫn lộn giữa điều thiện và điều ác – điều khiến cho việc xây dựng và duy trì trật tự luân lý của cá nhân và cộng đoàn trở nên bất khả thi”[84]. Nhằm thực hiện một cuộc suy tư Kitô giáo đích thực về các dấu chỉ thời đại, và trước thực trạng sự thật sâu xa về tình yêu con người đang bị che khuất trong tâm hồn của nhiều người đương thời, điều khẩn thiết là phải trở lại nguồn mạch trong lành của Tin Mừng.
37. Một số người Pharisêu tiến lại gần Đức Giêsu để thử Người và hỏi: “Có được phép để một người đàn ông ly dị vợ mình vì bất kỳ lý do nào không?” Người đáp: “Các ông chưa đọc sao? Đấng Tạo Hóa ngay từ lúc khởi đầu đã dựng nên họ có nam có nữ, và đã phán rằng: ‘Vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ trở nên một xương một thịt?’ Như vậy, họ không còn là hai, nhưng là một thân thể. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân rẽ!” Họ thưa lại: “Vậy tại sao ông Môsê đã truyền phải cấp giấy ly dị để cho rẫy vợ?” Đức Giêsu trả lời: “Vì lòng các ông chai đá, nên ông Môsê đã cho phép các ông rẫy vợ. Nhưng từ lúc khởi đầu, không phải như thế. Vì vậy, Tôi nói cho các ông hay: ai ly dị vợ mình – trừ trường hợp ngoại tình – rồi cưới người khác, là phạm tội ngoại tình” (Mt 19,3–9). Những lời này của Chúa đã quá quen thuộc, cũng như phản ứng của các môn đệ: “Nếu tình trạng của người nam đối với người nữ là như vậy, thì thà đừng kết hôn còn hơn” (Mt 19,10). Phản ứng ấy phản ánh cách nghĩ thông thường thời bấy giờ – vốn đã quay lưng lại với kế hoạch nguyên thủy của Đấng Tạo Hóa[85]. Sự nhượng bộ mà ông Môsê đưa ra chính là dấu chỉ của sự hiện diện của tội lỗi, mang hình thức sự chai đá tâm hồn (duritia cordis). Ngày nay, thậm chí còn hơn cả những thời đại trước – chúng ta cần lưu tâm nghiêm túc đến những chướng ngại của lý trí, sự xơ cứng trong ý chí, và sự cố định của đam mê – những cội rễ ẩn sâu làm phát sinh nhiều yếu tố mong manh, góp phần vào sự lan rộng của các mối liên hệ sống chung ngoài hôn nhân.
Các mối quan hệ sống chung không hôn thú, những yếu tố dễ tổn thương và ân sủng bí tích
38. Nhờ vào sự hiện diện của Giáo hội và hôn nhân Kitô giáo, xã hội dân sự trong suốt nhiều thế kỷ đã công nhận hôn nhân như một thực tại nguyên thủy của nó – tình trạng mà Chúa Kitô đã ám chỉ trong lời đáp trả của Người[86]. Tình trạng nguyên thủy của hôn nhân luôn mang tính thời sự, cũng như những khó khăn trong việc nhận thức và sống theo tình trạng ấy như một chân lý nội tại nơi sâu thẳm bản thể con người – điều vẫn khó nhận thức và sống theo, vì lòng chai dạ đá (propter duritiam cordis). Hôn nhân là một định chế tự nhiên, với những đặc tính cốt yếu có thể được trí tuệ nhận ra, vượt lên trên mọi nền văn hóa[87]. Việc nhận biết chân lý về hôn nhân cũng thuộc trật tự luân lý[88]. Tuy nhiên, cần ghi nhớ rằng bản tính con người, vốn đã bị tổn thương bởi tội lỗi và được Chúa Kitô cứu chuộc, không phải lúc nào cũng có khả năng phân định rõ ràng những chân lý mà Thiên Chúa đã khắc ghi nơi tâm hồn. Sứ điệp Kitô giáo mà Giáo hội rao giảng – và điều mà Huấn quyền khẳng định – cần được thể hiện như một lời giáo huấn và chứng tá sống động giữa thế gian[89]. Liên quan đến điều này, cần nhấn mạnh tầm quan trọng của ân sủng – chính ân sủng mang lại cho đời sống hôn nhân sự viên mãn đích thực của nó[90]. Khi phân định mục vụ liên quan đến các mối quan hệ sống chung không hôn thú, cần lưu tâm đến sự mong manh của con người. Đồng thời, cần nhấn mạnh tầm quan trọng của một kinh nghiệm sống và một giáo lý mang tính giáo hội thực sự, nhằm hướng dẫn con người sống đời sống ân sủng, cầu nguyện và tham dự các bí tích, đặc biệt là Bí tích Hòa giải.
39. Cần phân biệt giữa các yếu tố khác nhau làm phát sinh sự mong manh trong các mối quan hệ sống chung không hôn thú. Những mối quan hệ này thường được đặc trưng bởi cái gọi là “tình yêu tự do” – tức là từ chối hoặc không đón nhận những ràng buộc riêng biệt và đặc trưng của tình yêu vợ chồng. Đồng thời, như đã đề cập trước đó, cần phân biệt giữa: – Các mối quan hệ sống chung không hôn thú được hình thành do hoàn cảnh khó khăn, khiến một số người cảm thấy bị ép buộc; – Và những mối liên kết được chọn lựa có chủ ý vì lợi ích cá nhân, trong một “thái độ khinh miệt, phản kháng hoặc phủ nhận xã hội, định chế gia đình, trật tự chính trị – xã hội, hoặc đơn thuần là tìm kiếm khoái lạc” [91]. Cuối cùng, cũng cần xem xét trường hợp của những người bị thúc đẩy đến sống chung không hôn thú, “do sự thiếu hiểu biết và nghèo đói cùng cực; đôi khi do các áp lực phát sinh từ những tình huống bất công thực sự; hoặc thậm chí do một mức độ chưa trưởng thành về mặt tâm lý – khiến họ do dự và sợ hãi trước việc thiết lập một mối liên kết ổn định và dứt khoát”[92].
Do đó, việc phân định luân lý, hoạt động mục vụ, và cam kết xã hội của người Kitô hữu cần được thực hiện với sự chú ý đặc biệt đến thực trạng phong phú và đa dạng được gộp chung trong thuật ngữ “các mối quan hệ sống chung không hôn thú”, như đã được trình bày trước đó[93]. Dù nguyên nhân là gì, những liên hệ này đều gây ra “những vấn đề mục vụ nghiêm trọng, do các hậu quả nặng nề mà chúng để lại. Về phương diện tôn giáo và luân lý: – Đánh mất ý nghĩa tôn giáo của hôn nhân, vốn được soi sáng qua Giao Ước giữa Thiên Chúa và dân Ngài – Làm mất đi ân sủng của bí tích – Gây ra gương mù gương xấu nghiêm trọng; Về phương diện xã hội: – Phá vỡ khái niệm gia đình – Làm suy yếu ý thức trung thành đối với xã hội – Có thể gây tổn thương tâm lý nơi trẻ em – Cổ vũ lối sống ích kỷ”[94]. Chính vì những hậu quả ấy, Giáo hội đặc biệt nhạy cảm trước sự gia tăng của hiện tượng các mối liên hệ không hôn thú, và không ngừng kêu gọi việc phân định luân lý cũng như chăm sóc mục vụ một cách nghiêm túc trước thực trạng này.
Chứng tá về hôn nhân Kitô giáo
40. Những sáng kiến được đề xuất tại nhiều quốc gia có truyền thống Kitô giáo nhằm thúc đẩy việc ban hành luật pháp thuận lợi cho các mối quan hệ sống chung không hôn thú đã làm dấy lên nhiều mối quan ngại sâu sắc nơi các mục tử và tín hữu. Trong nhiều trường hợp, phản ứng trước hiện tượng này tỏ ra lúng túng và mang tính phòng thủ. Điều đó dễ tạo ấn tượng sai lệch rằng Giáo hội chỉ muốn duy trì nguyên trạng (status quo) – như thể gia đình được xây dựng trên nền tảng hôn nhân chỉ là một mô hình “truyền thống” mang tính văn hóa, mà Giáo hội cố gắng bảo tồn bất chấp những biến đổi sâu rộng của thời đại chúng ta.
Để đối mặt với tình trạng này, điều cấp thiết là đào sâu những khía cạnh tích cực của tình yêu vợ chồng, hầu một lần nữa đưa chân lý của Tin Mừng thấm nhập vào nền văn hóa, theo cách thức mà các Kitô hữu đã sống và thực hiện trong những thế kỷ đầu của thời đại chúng ta. Chủ thể ưu tiên trong công cuộc tái loan báo Tin Mừng về gia đình chính là các gia đình Kitô hữu. Bởi chính họ – trong tư cách là chủ thể truyền giáo – cũng là những nhà truyền giáo tiên khởi, loan báo “tin mừng” về “tình yêu mỹ miều”[95], không chỉ qua lời nói, mà còn – và trên hết – qua chứng tá cá nhân (testimonianza personale) đầy sống động của họ. Cần gấp rút tái khám phá giá trị xã hội của điều kỳ diệu là tình yêu phu thê, bởi hiện tượng các mối quan hệ sống chung không hôn thú không tách rời khỏi những yếu tố ý thức hệ đã làm lu mờ nó – vốn bắt nguồn từ một quan niệm sai lầm về tính dục con người và về mối tương quan giữa người nam và người nữ. Từ đó, nổi bật lên tầm quan trọng hàng đầu của đời sống ân sủng trong Đức Kitô nơi các cuộc hôn nhân Kitô giáo. Như Huấn quyền dạy: “Gia đình Kitô giáo cũng được đặt vào trong Giáo hội, dân tư tế: qua Bí tích Hôn phối – nơi gia đình được bén rễ và từ đó nhận được sự nuôi dưỡng – gia đình liên tục được Chúa Giêsu ban sự sống, và được Người kêu gọi cũng như cam kết bước vào cuộc đối thoại với Thiên Chúa qua đời sống bí tích, việc hiến dâng chính cuộc sống mình và lời cầu nguyện. Đây chính là sứ vụ tư tế (compito sacerdotale) mà gia đình Kitô hữu có thể và phải thi hành trong sự hiệp thông mật thiết với toàn thể Giáo hội, qua những thực tại thường nhật của đời sống hôn nhân và gia đình. Theo cách ấy, gia đình Kitô hữu được mời gọi nên thánh và thánh hóa cộng đồng Giáo hội cũng như thế giới (chiamata a santificarsi ed a santificare la comunità ecclesiale e il mondo)”[96].
41. Qua sự hiện diện của mình trong các lĩnh vực khác nhau của xã hội, hôn nhân Kitô giáo trở thành một phương tiện ưu ái để minh chứng cụ thể cho con người thời đại hôm nay – vốn phần nào bị tổn thương trong bản thể, kiệt quệ vì cuộc truy tìm vô vọng thứ “tình yêu tự do” đối lập với tình yêu vợ chồng đích thực. Trong chuỗi trải nghiệm rời rạc ấy, con người vẫn có thể tìm lại chính mình và nhận ra thực tại của một bản ngã được hoàn toàn thể hiện trong hôn nhân nơi Đức Giêsu Kitô. Chính cú va chạm với thực tại này là cách duy nhất có thể đánh thức trong tâm hồn nỗi hoài niệm về một quê hương, mà mỗi người luôn mang nơi mình một ký ức không thể xóa nhòa. Trước những người nam nữ thất vọng, hoài nghi mà hỏi rằng: “Liệu có điều gì tốt đẹp phát xuất từ trái tim con người không?” – cần có khả năng trả lời: “Hãy đến mà xem cuộc hôn nhân của chúng tôi. Hãy đến mà xem gia đình của chúng tôi.” Chính chứng tá đó có thể trở thành một điểm khởi đầu mang tính quyết định – một minh chứng sống động, qua đó cộng đoàn Kitô hữu, nhờ ân sủng của Thiên Chúa, biểu lộ lòng thương xót của Người dành cho nhân loại. Trong nhiều môi trường, có thể thấy rõ ảnh hưởng tích cực sâu sắc của các tín hữu Kitô giáo: với sự chọn lựa có ý thức về đức tin và đời sống, họ trở nên như men trong bột, như ánh sáng chiếu soi giữa bóng tối xã hội. Vì vậy, việc chăm sóc mục vụ trong giai đoạn chuẩn bị cho hôn nhân và đời sống gia đình, cũng như đồng hành trong hành trình vợ chồng và gia đình, là điều thiết yếu đối với sự sống của Giáo hội và của thế giới[97].
Chuẩn bị xứng hợp cho Bí tích Hôn phối
42. Huấn quyền của Giáo hội đã nhiều lần nhấn mạnh – đặc biệt là sau Công đồng Vaticanô II – về tầm quan trọng và tính không thể thay thế của việc chuẩn bị cho đời sống hôn nhân (preparazione al matrimonio) trong hoạt động mục vụ thường nhật. Việc chuẩn bị này không nên chỉ dừng lại ở việc cung cấp những thông tin căn bản về ý nghĩa hôn nhân theo giáo huấn của Giáo hội. Trái lại, cần được thực hiện như một hành trình đào luyện toàn diện về nhân cách, được xây dựng trên nền tảng giáo dục đức tin và các nhân đức luân lý – thiêng liêng. Hội đồng Giáo hoàng về Gia đình đã khai triển khía cạnh quan trọng này của mục vụ hôn nhân trong hai văn kiện: – Sự thật và ý nghĩa về tính dục con người (Sessualità umana: verità e significato), ban hành ngày 8 tháng 12 năm 1995. – Chuẩn bị cho Bí tích Hôn phối (Preparazione al sacramento del matrimonio), ban hành ngày 13 tháng 5 năm 1996. Trong đó, Huấn quyền nhấn mạnh đến vai trò nền tảng của việc chuẩn bị cho hôn nhân, cũng như nội dung cốt yếu cần thiết cho tiến trình này.
43. «Việc chuẩn bị cho đời sống vợ chồng và gia đình mang một ý nghĩa trọng đại đối với chính đời sống của Giáo hội. Thật vậy, Bí tích Hôn phối mang một giá trị to lớn không chỉ đối với toàn thể cộng đoàn Kitô hữu, mà đặc biệt là đối với chính các đôi bạn, bởi vì quyết định bước vào đời sống hôn nhân là một chọn lựa hệ trọng – không thể tùy tiện hay vội vàng. Trước đây, việc chuẩn bị cho hôn nhân còn có thể trông cậy vào sự nâng đỡ từ xã hội, nơi các giá trị và lợi ích của hôn nhân được công nhận rộng rãi. Giáo hội – không gặp trở ngại hay nghi ngờ – đã mạnh mẽ bảo vệ sự thánh thiêng của hôn nhân, với xác tín rằng bí tích này là một bảo chứng mang tính Giáo hội, như một tế bào sống động của Dân Thiên Chúa. Sự nâng đỡ từ Giáo hội – đặc biệt nơi các cộng đoàn thực sự được Tin Mừng hóa – luôn mang tính vững chắc, thống nhất và kiên định. Các trường hợp ly thân hay đổ vỡ hôn nhân hầu như rất hiếm; ly dị được xem như một "căn bệnh của xã hội" (x. Gaudium et Spes, số 47). Ngược lại, ngày nay, chúng ta đang chứng kiến sự suy thoái nghiêm trọng của gia đình và sự xói mòn các giá trị hôn nhân. Tại nhiều quốc gia – đặc biệt là những nước phát triển về kinh tế – tỷ lệ kết hôn giảm sút rõ rệt. Người ta kết hôn muộn hơn, và số vụ ly hôn, ly thân gia tăng – ngay cả trong những năm đầu đời sống hôn nhân. Tất cả điều này chắc chắn làm dấy lên mối quan tâm mục vụ sâu sắc, đã được nhấn mạnh không ít lần: những người bước vào hôn nhân, liệu họ có thực sự được chuẩn bị một cách nghiêm túc cho điều đó? Thực vậy, vấn đề chuẩn bị cho Bí tích Hôn phối – và cho đời sống hôn nhân nối tiếp sau đó – nổi lên như một nhu cầu mục vụ cấp bách, không chỉ vì lợi ích của các đôi bạn, mà còn vì lợi ích của toàn thể cộng đoàn Kitô hữu và xã hội. Chính vì thế, sự quan tâm và các sáng kiến mục vụ đang ngày một được khơi dậy khắp nơi, nhằm đưa ra những giải pháp thích hợp và kịp thời cho việc chuẩn bị cử hành Bí tích Hôn phối».[98]
44. Không như những thời kỳ trước, ngày nay vấn đề trọng tâm không còn nằm ở việc người trẻ đã được chuẩn bị đầy đủ hay chưa trước khi bước vào đời sống hôn nhân. Một phần nguyên nhân nằm ở một cái nhìn nhân học mang tính bi quan, có xu hướng phá vỡ cấu trúc và phủ nhận tính chủ thể của con người – dẫn đến sự lu mờ phẩm giá cá nhân. Cái nhìn ấy khiến nhiều người trẻ hoài nghi rằng hôn nhân liệu có thực sự là nơi hiện hữu một món quà đích thực, tạo nên một mối liên kết trung tín, sinh hoa trái và bất khả phân ly. Trong một số trường hợp, hệ quả là sự từ chối định chế hôn nhân – bị coi là một thực tại ảo tưởng, chỉ dành cho những ai có sự chuẩn bị đặc biệt. Từ đó, nổi lên tầm quan trọng của giáo dục Kitô giáo hướng đến một quan niệm đúng đắn và thực tế về tự do, đặc biệt trong tương quan với hôn nhân. Tự do không phải là từ chối ràng buộc, mà là khả năng khám phá ra giá trị thiện hảo của món quà hôn nhân, và tự định hướng đời sống về phía món quà ấy.
Giáo lý về gia đình
45. Trong chiều hướng này, việc phòng ngừa thông qua giáo lý gia đình (catechesi familiare) mang một tầm quan trọng đặc biệt. Chứng tá sống động của các gia đình Kitô hữu là điều không thể thay thế – cả đối với con cái của họ, lẫn trong chính xã hội nơi họ hiện diện. Các mục tử không phải là những người duy nhất có trách nhiệm bảo vệ gia đình; chính các gia đình cũng cần chủ động đòi hỏi sự tôn trọng đối với các quyền lợi và căn tính của mình. Cần đặc biệt lưu ý rằng ngày nay, giáo lý gia đình đang chiếm một vị trí ưu tiên trong toàn bộ công cuộc chăm sóc mục vụ gia đình. Tại đây, các thực tại gia đình được tiếp cận một cách hữu cơ, toàn diện và có hệ thống – dưới tiêu chuẩn của đức tin, dưới ánh sáng của Lời Chúa được Giáo hội diễn giải cách trung thành với Huấn quyền, qua các mục tử hợp pháp và có thẩm quyền, những người thực sự góp phần vào việc đào sâu chân lý cứu độ về con người trong tiến trình giáo lý này. Cần kiên trì nỗ lực chứng minh tính hợp lý và độ tin cậy của Tin Mừng trong tương quan với hôn nhân và gia đình – thông qua việc tổ chức lại hệ thống giáo dục của Giáo hội[99]. Việc giải thích hôn nhân và gia đình dựa trên một cái nhìn nhân học đúng đắn vẫn tiếp tục gây ngạc nhiên – ngay cả nơi những người Kitô hữu – khi họ khám phá ra rằng đây không chỉ là một vấn đề thuộc về đức tin, mà còn là nơi giúp họ xác tín mạnh mẽ hơn trong đức tin và thúc đẩy hành động cụ thể: đưa ra chứng tá sống động bằng đời sống cá nhân, và thực thi sứ vụ tông đồ đặc thù của người giáo dân.
Các phương tiện truyền thông
46. Ngày nay, cuộc khủng hoảng về các giá trị gia đình và khái niệm gia đình trong hệ thống pháp luật quốc gia cũng như trong các phương tiện truyền thông văn hóa – như báo chí, truyền hình, internet, điện ảnh, v.v. – đòi hỏi một nỗ lực đặc biệt nhằm bảo đảm sự hiện diện của các giá trị gia đình trên các phương tiện truyền thông đại chúng (la presenza dei valori familiari nei mezzi di comunicazione). Truyền thông có ảnh hưởng sâu rộng trong việc làm suy giảm sự nhạy cảm xã hội trước các thực trạng như ngoại tình, ly hôn, hay các liên hệ sống chung ngoài hôn nhân. Đồng thời, truyền thông cũng có thể bóp méo – một cách nguy hại – “các giá trị” (valori) [hay đúng hơn là “phản các giá trị” (contro-valori)], khi chúng được trình bày như những lối sống bình thường. Cũng cần lưu tâm rằng, trong một số trường hợp – bất chấp những đóng góp đáng trân trọng từ các Kitô hữu dấn thân trong lĩnh vực truyền thông – vẫn có những chương trình và loạt phim truyền hình không những không nuôi dưỡng đời sống tôn giáo, mà còn cổ vũ sự thông tin sai lệch và gia tăng tình trạng thiếu hiểu biết về đức tin. Mặc dù những yếu tố này không phải là nền tảng cốt lõi trong việc hình thành văn hóa, chúng vẫn là những thành tố xã hội học đáng kể – cần được cân nhắc nghiêm túc trong một công cuộc mục vụ được định hướng bởi sự phân định thực tế và trung thành với Tin Mừng.
Phận vụ của xã hội
47. Đối với nhiều người đương thời – những người mà tính chủ thể đã bị phá vỡ bởi các hệ tư tưởng – gần như không còn tồn tại khái niệm hôn nhân; thực tại hôn nhân không mang bất cứ ý nghĩa nào đối với họ. Vậy, việc mục vụ của Giáo hội làm sao có thể trở thành một biến cố cứu độ, ngay cả với những người ấy? Trong chiều hướng đó, sự dấn thân chính trị và lập pháp (l’impegno politico e legislativo) của các tín hữu Công giáo có trách nhiệm trong các lĩnh vực này là điều mang tính quyết định. Bởi vì luật pháp góp phần to lớn vào việc định hình bản sắc đạo đức (ethos) của một dân tộc. Vì vậy, điều đặc biệt quan trọng là phải vượt qua cám dỗ thờ ơ trong môi trường chính trị và lập pháp, và mạnh mẽ làm chứng công khai cho phẩm giá con người. Việc đặt các mối liên hệ sống chung không hôn thú ngang hàng với gia đình, như đã thấy, hàm ý một sự biến đổi trong trật tự pháp lý, vốn lẽ ra được định hướng theo thiện ích chung của xã hội. Điều này kéo theo sự suy giảm giá trị của định chế hôn nhân được xây dựng trên nền tảng của hôn nhân đích thực, và do đó, gây tổn hại cho con người, gia đình và xã hội. “Khả năng chính trị” và sự phát triển của nó theo thời gian không thể tách rời các nguyên tắc nền tảng của chân lý về con người – vốn phải là nguồn cảm hứng cho các thái độ, các sáng kiến cụ thể, và các chương trình hướng về tương lai[100]. Đồng thời, cũng cần đặt lại vấn đề về giáo điều trong mối liên kết không thể tách rời giữa dân chủ và chủ nghĩa tương đối đạo đức – nền tảng của nhiều sáng kiến lập pháp hiện nay, vốn có xu hướng đặt các quan hệ sống chung ngoài hôn nhân ngang hàng với gia đình.
48. Vấn đề về các mối liên hệ sống chung ngoài hôn nhân hiện nay là một thách thức lớn đối với các Kitô hữu, những người được mời gọi làm chứng cho tính hợp lý của đức tin (mostrare l’aspetto razionale della fede) – tức là tính hợp lý sâu xa của Tin Mừng về hôn nhân và gia đình. Mọi hoạt động loan báo Tin Mừng mà không thể đáp ứng được thách thức lý tính này – hiểu là sự tương hợp nội tại giữa khát vọng tự nhiên (desiderium naturale) của con người và Tin Mừng do Giáo hội công bố – sẽ không mang lại hiệu quả mục vụ như mong đợi. Chính vì thế, ngày nay hơn bao giờ hết, cần phải làm nổi bật tính đáng tin cậy nội tại của chân lý về con người – vốn là nền tảng của định chế tình yêu vợ chồng. Khác với các bí tích khác, hôn nhân không chỉ thuộc về nhiệm cục cứu độ (economia della salvezza), mà còn thuộc về nhiệm cục Tạo dựng (economia della Creazione) – được ghi khắc trong chính tiến trình tự nhiên của nhân loại. Vì vậy, cần thực hiện một nỗ lực nghiêm túc để suy tư về những nền tảng căn bản và các nguyên tắc thiết yếu đang truyền cảm hứng cho các hoạt động giáo dục trong nhiều lĩnh vực và thiết chế khác nhau. Vấn đề đặt ra là: đâu là triết lý giáo dục của các thiết chế trong Giáo hội hiện nay? Và làm thế nào để chuyển hóa các nguyên tắc ấy thành một nền giáo dục phù hợp với hôn nhân và gia đình – như những cấu trúc nền tảng và thiết yếu đối với xã hội?
Chú tâm và tiếp cận mục vụ
49. Việc có một thái độ cảm thông đối với các vấn đề hiện sinh và những chọn lựa cá nhân của những người đang sống trong liên hệ sống chung ngoài hôn nhân là điều chính đáng – và trong một số hoàn cảnh, còn là một bổn phận mục vụ. Một số tình huống như thế thậm chí cần khơi dậy lòng trắc ẩn đích thực. Việc tôn trọng phẩm giá con người không bao giờ bị đặt thành vấn đề. Tuy nhiên, sự cảm thông với hoàn cảnh và sự tôn trọng đối với con người không đồng nghĩa với việc biện minh cho những chọn lựa ấy. Trong những hoàn cảnh như vậy, cần nhấn mạnh rằng: chân lý là một thiện ích thiết yếu của con người, và là yếu tố nền tảng của tự do đích thực. Việc khẳng định chân lý không phải là một sự xúc phạm, mà trái lại, là một hình thức bác ái: “Không làm suy giảm chút nào giáo lý cứu độ của Đức Kitô” là “một hình thức bác ái cao cả đối với các linh hồn”[101], với điều kiện điều này được thực hiện “với lòng kiên nhẫn và nhân hậu mà chính Chúa đã nêu gương khi đối xử với con người”[102].
Do đó, các Kitô hữu được mời gọi nỗ lực hiểu rõ các căn nguyên cá nhân, xã hội, văn hóa và ý thức hệ dẫn đến sự lan rộng của các liên hệ sống chung ngoài hôn nhân. Cần ghi nhớ rằng, việc mục vụ khôn ngoan và thận trọng có thể – trong một số trường hợp – góp phần vào việc phục hồi thể chế cho những liên hệ sống chung này. Những người ở trong hoàn cảnh như vậy cần được xem xét thận trọng, từng trường hợp một, trong khuôn khổ của công tác mục vụ thường xuyên của cộng đoàn Giáo hội: thông qua sự quan tâm thực tế đến các vấn đề của họ, những khó khăn phát sinh, và qua cuộc đối thoại kiên nhẫn cùng sự trợ giúp cụ thể, đặc biệt là đối với con cái của họ. Ngay cả trong phương diện mục vụ này, phòng ngừa vẫn là một thái độ ưu tiên.
Kết luận
50. Trong suốt nhiều thế kỷ, sự khôn ngoan của các dân tộc – mặc dù còn những giới hạn nhất định – phần lớn đã công nhận sự hiện hữu và sứ mạng nền tảng, không thể thay thế của gia đình được thiết lập trên nền tảng hôn nhân. Gia đình là một thiện ích thiết yếu và không thể thay thế đối với toàn xã hội. Gia đình có một quyền chính đáng, dựa trên công lý, để được xã hội công nhận, bảo vệ và thăng tiến. Chính toàn thể xã hội sẽ phải gánh chịu tổn hại nếu xảy ra sự xâm phạm – dưới bất kỳ hình thức nào – đối với thiện ích quý giá và thiết yếu này của nhân loại. Xã hội không thể thờ ơ trước hiện tượng sống chung ngoài hôn nhân và sự suy giảm giá trị của tình yêu vợ chồng mà hiện tượng ấy hàm chứa. Việc đơn giản hóa vấn đề bằng một giải pháp sai lầm – khi công nhận các liên hệ sống chung ngoài hôn nhân, và công khai đặt chúng ngang hàng với các gia đình được thiết lập trên nền tảng hôn nhân – không chỉ gây tổn hại bất tương xứng đối với hôn nhân, mà còn làm suy yếu nghiêm trọng hơn nữa gia đình – một định chế tự nhiên thiết yếu, vốn đang rất cần đến những chính sách gia đình thực chất. Hơn nữa, cách tiếp cận đó còn biểu lộ một sự phủ nhận sâu sắc chân lý nhân học về tình yêu giữa người nam và người nữ, cùng với đặc tính không thể tách rời của tình yêu ấy: sự kết hợp ổn định và mở ra cho sự sống. Sự phủ nhận ấy càng trở nên nghiêm trọng hơn khi người ta làm ngơ trước sự khác biệt căn bản và sâu sắc giữa tình yêu vợ chồng phát sinh từ hôn nhân bí tích và các mối quan hệ đồng tính. Sự thờ ơ của các cơ quan công quyền trong điểm này chẳng khác nào sự lãnh đạm trước sự sống hay cái chết của xã hội, trước tương lai của xã hội hoặc chính sự suy thoái của nó. Nếu không có những biện pháp thích hợp, thì thái độ “trung lập” ấy có nguy cơ dẫn đến sự suy thoái nghiêm trọng của kết cấu xã hội và việc giáo dục các thế hệ mai sau.
Việc đánh giá chưa đầy đủ về tình yêu vợ chồng và sự mở ngỏ nội tại của nó đối với sự sống, cùng với sự bất ổn phát sinh trong đời sống gia đình, là một hiện tượng xã hội đòi hỏi sự phân định thích đáng từ tất cả những ai cảm thấy mình được mời gọi bảo vệ thiện ích của gia đình – đặc biệt là các Kitô hữu. Trước hết, cần nhận diện đúng những nguyên nhân thực sự của tình trạng này – bao gồm yếu tố ý thức hệ và yếu tố kinh tế – và không được nhượng bộ trước những yêu sách mang tính mị dân đến từ các nhóm vận động không quan tâm đến thiện ích chung của xã hội. Đối với Giáo hội Công giáo, trong hành trình bước theo Đức Giêsu Kitô, gia đình và tình yêu vợ chồng là một hồng ân hiệp thông của Thiên Chúa giàu lòng thương xót dành cho nhân loại – một kho tàng quý giá của sự thánh thiện và ân sủng tỏa sáng giữa lòng thế giới. Vì thế, Giáo hội tha thiết mời gọi tất cả những ai dấn thân cho sự nghiệp của con người hãy hiệp nhất nỗ lực để thăng tiến gia đình và nguồn sống nội tại của nó, chính là sự kết hợp vợ chồng.
Linh mục Giuse Đinh Quang Vinh,
Ban Mục vụ Gia đình Giáo phận Đà Lạt
Chuyển ngữ từ: vatican.va
[1] Công đồng Vaticanô II, Hiến chế Gaudium et Spes (Vui mừng và Hy vọng), số 47.
[2] Công đồng Vaticanô II, Hiến chế Lumen Gentium (Ánh sáng muôn dân), số 11; Sắc lệnh Apostolicam actuositatem (Hoạt động Tông đồ), số 11.
[3] Giáo lý Hội Thánh Công giáo, các số từ 2331–2400 và 2514–2533; Hội đồng Giáo hoàng về Gia đình, văn kiện Sự thật và ý nghĩa về tính dục con người, ban hành ngày 8 tháng 2 năm 1995.
[4] Đức Gioan Phaolô II, Tông huấn Familiaris consortio (Sự hiệp thông của gia đình), số 80.
[5] Tại các quốc gia này, hoạt động nhân bản hóa và mục vụ của Giáo hội — xuất phát từ lựa chọn ưu tiên dành cho người nghèo — nhìn chung đã được định hướng theo hướng “hợp thức hóa” các mối quan hệ này, thông qua việc cử hành Bí tích Hôn phối (hoặc qua việc chuẩn nhận hoặc hợp thức hóa, tùy theo từng trường hợp), phù hợp với thái độ mục vụ của Giáo hội là dấn thân cho việc thánh hóa các gia đình Kitô hữu.
[6] Nhiều lý thuyết cấu trúc luận hiện nay đưa ra những quan điểm khác nhau về cách xã hội — theo lập luận của họ — cần thay đổi để thích ứng với các hình thức giới tính đa dạng (chẳng hạn trong lĩnh vực giáo dục, y tế, v.v.). Một số quan điểm cho rằng có ba giới, một số khác là năm, bảy, và thậm chí có những lý thuyết cho rằng số lượng giới có thể thay đổi tùy theo những tiêu chí khác nhau.
[7] Cả chủ nghĩa Marx lẫn chủ nghĩa cấu trúc đều đã góp phần, ở mức độ khác nhau, vào việc củng cố hệ tư tưởng “giới”, vốn chịu ảnh hưởng từ nhiều trào lưu khác nhau — chẳng hạn như “cuộc cách mạng tình dục”, với những luận điểm như của Wilhelm Reich (1897–1957), người kêu gọi “giải phóng” khỏi mọi hình thức kỷ luật tình dục; hoặc Herbert Marcuse (1898–1979), người cổ vũ việc trải nghiệm mọi kiểu tình huống tình dục (được hiểu như một dạng đa hình thái tình dục, với xu hướng không phân biệt giữa “dị tính luyến ái” — tức xu hướng tình dục tự nhiên — và đồng tính luyến ái), tách biệt khỏi gia đình và khỏi bất kỳ mục đích tự nhiên nào liên quan đến sự phân biệt giới tính, cũng như khỏi mọi ràng buộc phát sinh từ trách nhiệm sinh sản. Một số hình thức nữ quyền cực đoan và cấp tiến, tiêu biểu như Margaret Sanger (1879–1966) và Simone de Beauvoir (1908–1986), cũng không thể bị xem là nằm ngoài tiến trình lịch sử củng cố hệ tư tưởng này. Theo đó, “dị tính luyến ái” và “hôn nhân một vợ một chồng” chỉ còn là những khả thể trong số nhiều hình thức thực hành tình dục.
[8] Đáng tiếc, cách tiếp cận này đã nhận được sự đón nhận thuận lợi từ nhiều tổ chức quốc tế quan trọng, và điều đó đã dẫn đến sự suy giảm trong chính khái niệm về gia đình — vốn có nền tảng tất yếu là hôn nhân. Trong số các tổ chức này, một số cơ quan trực thuộc Tổ chức Liên Hợp Quốc dường như gần đây đã chấp nhận một số lý thuyết như vậy, qua đó bỏ qua ý nghĩa đích thực của Điều 16 trong Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền năm 1948, vốn xác định gia đình là “tế bào tự nhiên và nền tảng của xã hội.” Xem thêm: Hội đồng Giáo hoàng về Gia đình, “Gia đình và Nhân quyền”, 1999, số 16.
[9] Aristôt, Chính trị học, quyển I, đoạn 9–10 (Bk 1253a).
[10] Giáo lý Hội Thánh Công giáo, số 2207.
[11] Đức Gioan Phaolô II, Tông huấn Familiaris consortio (Sự hiệp thông của gia đình), số 18.
[12] Đức Gioan Phaolô II, Bài diễn từ trong buổi tiếp kiến chung ngày 1 tháng 12 năm 1999.
[13] Công đồng Vaticanô II, Hiến chế Gaudium et Spes (Vui mừng và Hy vọng), số 47.
[14] “… bất kể các dòng tư tưởng khác nhau, vẫn tồn tại một tập hợp tri thức trong đó có thể nhận ra một dạng di sản tinh thần của nhân loại. Dường như chúng ta đang đứng trước một thứ triết học ngầm, nhờ đó mỗi người cảm thấy mình sở hữu những nguyên lý này, dù chỉ ở dạng tổng quát và chưa được phản tỉnh. Chính vì những tri thức này được chia sẻ ở một mức độ nào đó bởi tất cả mọi người, nên chúng cần được xem như một điểm quy chiếu cho các trường phái triết học khác nhau. Khi lý trí có thể trực giác và diễn đạt các nguyên lý đầu tiên và phổ quát của hữu thể, và từ đó rút ra một cách đúng đắn những kết luận nhất quán về mặt logic và luân lý, thì khi ấy ta có thể gọi đó là một lý trí ngay thẳng — hay như các bậc cổ nhân gọi, là orthòs logos, recta ratio.” — Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Fides et Ratio (Đức Tin và Lý Trí), số 4.
[15]Công đồng Vaticanô II, Hiến chế Dei Verbum (Lời Thiên Chúa), số 10.
[16] “Mối tương quan giữa đức tin và triết học gặp nơi việc rao giảng Đức Kitô chịu đóng đinh và phục sinh một tảng đá ngầm: có thể khiến nó đắm chìm, nhưng cũng có thể mở ra đại dương bao la của chân lý. Tại đây, ranh giới giữa lý trí và đức tin trở nên rõ ràng, nhưng đồng thời cũng hiện rõ không gian nơi cả hai có thể gặp gỡ nhau.” — Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Fides et Ratio (Đức Tin và Lý Trí), số 23.
“Tin Mừng về sự sống không chỉ dành riêng cho người tín hữu: nó dành cho tất cả mọi người. Vấn đề sự sống, cũng như việc bảo vệ và thăng tiến sự sống, không phải là đặc quyền của riêng người Kitô hữu…” — Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Evangelium Vitae (Tin Mừng Sự Sống), số 101.
[17]Đức Gioan Phaolô II, Bài diễn từ tại Diễn đàn các Hiệp hội Công giáo Ý, ngày 27/6/1998.
[18]Hội đồng Giáo hoàng về Gia đình, Tuyên bố về Nghị quyết của Nghị viện Châu Âu nhằm bình đẳng hóa gia đình với các “mối liên hệ sống chung ngoài hôn nhân”, bao gồm cả các mối quan hệ đồng tính, ngày 17 tháng 3 năm 2000.
[19]Thánh Augustinô, Tác phẩm “Về tự do ý chí”, quyển I, chương 5, đoạn 11.
[20]“Đời sống xã hội và hệ thống pháp luật của nó đòi hỏi phải có một nền tảng tối hậu. Nếu không tồn tại một luật nào khác ngoài luật dân sự, thì ta phải thừa nhận rằng bất kỳ giá trị nào — kể cả những giá trị mà con người đã từng đấu tranh và xem là những bước tiến mang tính quyết định trong hành trình dài hướng tới tự do — đều có thể bị xóa bỏ chỉ bằng một đa số phiếu. Những ai chỉ trích luật tự nhiên không được nhắm mắt làm ngơ trước khả năng này; và khi họ thúc đẩy các đạo luật đi ngược lại thiện ích chung trong những đòi hỏi nền tảng của nó, họ phải ý thức đầy đủ về mọi hệ quả từ hành động của mình, bởi lẽ họ có thể đang đẩy xã hội đi theo một hướng nguy hiểm.” — Bài diễn từ của Đức Hồng y Angelo Sodano tại Cuộc gặp gỡ lần thứ hai của các chính trị gia và nhà lập pháp châu Âu, do Hội đồng Giáo hoàng về Gia đình tổ chức, ngày 22–24 tháng 10 năm 1998.
[21]Ở châu Âu, ví dụ trong Hiến pháp của các quốc gia:
Đức: “Hôn nhân và gia đình được bảo vệ đặc biệt trong hệ thống pháp luật của Nhà nước” (Điều 6).
Tây Ban Nha: “Các cơ quan công quyền đảm bảo sự bảo vệ xã hội, kinh tế và pháp lý cho gia đình” (Điều 39).
Ireland: “Nhà nước công nhận gia đình là nhóm tự nhiên, sơ khai và nền tảng của xã hội, là một thiết chế đạo đức có quyền bất khả xâm phạm và không thể bị tước đoạt, tồn tại trước và cao hơn mọi luật pháp hiện hành. Vì vậy, Nhà nước cam kết bảo vệ cấu trúc và quyền lực của gia đình như là nền tảng cần thiết của trật tự xã hội và là yếu tố không thể thiếu cho sự thịnh vượng của Quốc gia và Nhà nước” (Điều 41).
Ý: “Cộng hòa công nhận quyền của gia đình như một xã hội tự nhiên được xây dựng trên nền tảng hôn nhân” (Điều 29).
Ba Lan: “Hôn nhân, tức là sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ, cũng như gia đình, quyền làm cha và làm mẹ, phải được bảo vệ và chăm sóc bởi Cộng hòa Ba Lan” (Điều 18).
Bồ Đào Nha: “Gia đình, như một yếu tố nền tảng của xã hội, có quyền được xã hội và Nhà nước bảo vệ, và được tạo điều kiện để các thành viên trong gia đình phát triển cá nhân” (Điều 67).
Trong Hiến pháp của các quốc gia khác trên thế giới:
Argentina: “... luật sẽ quy định ... sự bảo vệ toàn diện cho gia đình” (Điều 14).
Brazil: “Gia đình, là nền tảng của xã hội, được Nhà nước bảo vệ đặc biệt” (Điều 226).
Chile: “Gia đình là hạt nhân nền tảng của xã hội ... Nhà nước có nghĩa vụ ... đảm bảo sự bảo vệ cho người dân và gia đình ...” (Điều 1).
Trung Quốc: “Nhà nước bảo vệ hôn nhân, gia đình, quyền làm mẹ và trẻ em” (Điều 49).
Colombia: “Nhà nước công nhận, không phân biệt đối xử, quyền tối cao của các quyền bất khả xâm phạm của con người và bảo vệ gia đình như một thiết chế nền tảng của xã hội” (Điều 5).
Hàn Quốc: “Hôn nhân và đời sống gia đình được xây dựng trên phẩm giá cá nhân và bình đẳng giới; Nhà nước sẽ sử dụng mọi phương tiện có thể để đạt được mục tiêu này” (Điều 36).
Philippines: “Nhà nước công nhận gia đình Philippines là nền tảng của Quốc gia. Do đó, cần thúc đẩy mạnh mẽ sự đoàn kết, khuyến khích tích cực và phát triển toàn diện. Hôn nhân là một thiết chế xã hội bất khả xâm phạm, là nền tảng của gia đình và phải được Nhà nước bảo vệ” (Điều 15).
Mexico: “... Luật ... sẽ bảo vệ tổ chức và sự phát triển của gia đình” (Điều 4).
Peru: “Cộng đồng và Nhà nước ... cũng bảo vệ gia đình và thúc đẩy hôn nhân; công nhận chúng là những thiết chế tự nhiên và nền tảng của xã hội” (Điều 4).
Rwanda: “Gia đình, là nền tảng tự nhiên của người dân Rwanda, sẽ được Nhà nước bảo vệ” (Điều 24).
[22] “Mỗi đạo luật do con người đặt ra chỉ có giá trị là luật trong chừng mực nó được phát xuất từ luật tự nhiên. Nếu trong bất kỳ điểm nào nó mâu thuẫn với luật tự nhiên, thì nó không còn là luật nữa, mà là sự biến chất của luật.” — Thánh Tôma Aquinô,Summa Theologica, phần I-II, vấn đề 95, điều 2.
[23]Đức Gioan Phaolô II, Bài diễn từ tại Cuộc gặp gỡ lần thứ hai của các chính trị gia và nhà lập pháp châu Âu, do Hội đồng Giáo hoàng về Gia đình tổ chức, ngày 23 tháng 10 năm 1998.
[24]Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Centesimus Annus - Năm thứ một trăm, số 46.
[25]“Là những nhà lãnh đạo chính trị và lập pháp mong muốn trung thành với Tuyên ngôn Phổ quát về Nhân quyền, chúng tôi cam kết thúc đẩy và bảo vệ các quyền của gia đình được thiết lập trên nền tảng hôn nhân giữa một người nam và một người nữ. Việc này cần được thực hiện ở mọi cấp độ: địa phương, khu vực, quốc gia và quốc tế. Chỉ bằng cách ấy, chúng tôi mới thực sự phục vụ cho thiện ích chung, cả ở cấp quốc gia lẫn quốc tế.” — Kết luận của Cuộc gặp gỡ lần thứ hai của các chính trị gia và nhà lập pháp châu Âu, mục 4.1.
[26] “Gia đình là hạt nhân trung tâm của xã hội dân sự. Gia đình chắc chắn có một vai trò kinh tế quan trọng, không thể bị lãng quên, bởi lẽ nó là nguồn vốn nhân lực lớn nhất. Tuy nhiên, sứ mạng của gia đình còn bao hàm nhiều nhiệm vụ khác. Trước hết, gia đình là một cộng đoàn tự nhiên của sự sống, một cộng đoàn được thiết lập trên nền tảng hôn nhân, và vì thế có mức độ gắn kết vượt trội so với bất kỳ cộng đồng xã hội nào khác.” — Tuyên bố chung kết của Cuộc gặp gỡ lần thứ ba của các chính trị gia và nhà lập pháp châu Mỹ, Buenos Aires, 3–5 tháng 8 năm 1999, mục 7.
[27]X. Hiến chương về Quyền của Gia đình, Lời mở đầu
[28]Đức Gioan Phaolô II, Gratissimam sane (Thư gửi các Gia đình), số 8.
[29] Xem Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo, số 2333; Gratissimam sane (Thư gửi các Gia đình), số 8.
[30]Công đồng Vaticanô II, Hiến chế Gaudium et spes, số 49.
[31]Xem Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo, số 2332; Đức Gioan Phaolô II, Diễn từ tại Tòa án Rota Roma, ngày 21 tháng 1 năm 1999.
[32]Đức Gioan Phaolô II, Gratissimam sane (Thư gửi các Gia đình), các số 7–8.
[33]Đức Gioan Phaolô II, Diễn từ tại Tòa án Rota Roma, ngày 21 tháng 1 năm 1999.
[34]Sđd.
[35]Sđd.
[36]Sđd.
[37] “Hôn nhân thiết lập khuôn khổ pháp lý giúp củng cố sự ổn định của gia đình. Nó cho phép việc tiếp nối các thế hệ. Hôn nhân không phải là một hợp đồng đơn thuần hay một vấn đề riêng tư, mà là một trong những cấu trúc nền tảng của xã hội, giữ cho xã hội được gắn kết.” — Tuyên bố của Hội đồng Thường trực Hội đồng Giám mục Pháp, liên quan đến dự luật về “Giao ước dân sự liên đới - Pacte civil de solidarité”, ngày 17/9/1998.
[38]Đức Gioan Phaolô II, Tông huấn Familiaris consortio (Sự hiệp thông của gia đình), số 19.
[39]Đức Gioan Phaolô II, Diễn từ trước Tòa Thượng thẩm Rota Roma, ngày 21/1/1999.
[40]“Không có sự tương đương giữa mối quan hệ của hai người cùng giới tính và mối quan hệ hình thành bởi một người nam và một người nữ. Chỉ mối quan hệ sau mới có thể được xem là một ‘đôi lứa’, bởi nó bao hàm sự khác biệt giới tính, chiều kích vợ chồng, khả năng thực hiện vai trò làm cha và làm mẹ. Hiển nhiên, đồng tính luyến ái không thể đại diện cho tổng thể biểu tượng ấy.” — Tuyên bố của Hội đồng Thường trực Hội đồng Giám mục Pháp, liên quan đến dự luật về “Giao ước dân sự liên đới”, ngày 17/9/1998.
[41]Về sự rối loạn luân lý nghiêm trọng mang tính nội tại, trái với luật tự nhiên, của các hành vi đồng tính, xin tham khảo: Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo, các số 2357-2359; Bộ Giáo lý Đức tin, Tuyên ngôn Persona humana, ngày 29/12/1975; Hội đồng Giáo hoàng về Gia đình, Tài liệu Tính dục con người: sự thật và ý nghĩa, ngày 8-12-1995, số 104.
[42]Đức Gioan Phaolô II, Diễn văn trước các tham dự viên của Khóa họp toàn thể lần thứ XIV của Hội đồng Giáo hoàng về Gia đình. Xem thêm: Đức Gioan Phaolô II II, những lời được ngài nói trong buổi đọc Kinh Truyền Tin ngày 19/06/1994.
[43]Hội đồng Giáo hoàng về Gia đình, Tuyên bố về Nghị quyết của Nghị viện Châu Âu, trong đó xem gia đình ngang hàng với các “liên hệ sống chung ngoài hôn nhân”, bao gồm cả các quan hệ đồng tính, ngày 17/03/2000.
[44] “Chúng ta không thể làm ngơ trước thực tế rằng, như chính một số người ủng hộ đã thừa nhận, một đạo luật như vậy là bước đầu tiên, chẳng hạn, hướng tới việc cho phép những người sống trong quan hệ đồng tính nhận con nuôi. Chúng ta lo sợ cho tương lai, đồng thời lấy làm tiếc về những gì đã xảy ra trong quá khứ.” Tuyên bố của Chủ tịch Hội đồng Giám mục Pháp, sau khi ban hành “Patto civile di solidarietà”(“Giao ước dân sự liên đới”), ngày 13/10/1999.
[45]Đức Gioan Phaolô II, những lời được ngài nói trong buổi đọc Kinh Truyền Tin ngày 20/02/1994.
[46]Xem Ghi chú của Ủy ban Thường trực Hội đồng Giám mục Tây Ban Nha (ngày 24/06/1994), nhân dịp Nghị quyết ngày 08/02/1994 của Nghị viện Châu Âu về việc công nhận quyền bình đẳng của người đồng tính nam và đồng tính nữ.
[47]Đức Gioan Phaolô II, Gratissimam sane (Thư gửi các Gia đình), số 11.
[48]Sđd., số 14.
[49]Sđd., số 17, đoạn cuối.
[50]Hiến chương về Quyền của Gia đình, Lời mở đầu, mục D.
[51]Sđd., Lời mở đầu (nhiều đoạn) và Điều 6.
[52]Sđd., Lời mở đầu, mục B và I.
[53]Sđd., Lời mở đầu, mục C và G.
[54]Đức Gioan Phaolô II, Gratissimam sane (Thư gửi các Gia đình), các số 9–11.
[55]Đức Gioan Phaolô II, Huấn từ ngày 26/12/1999.
[56]Xem Đức Gioan Phaolô II, Tông huấn Familiaris consortio (Sự hiệp thông của gia đình), số 21; xem thêm Gratissimam sane (Thư gửi các Gia đình), các số 13–15.
[57]Hiến chương về Quyền của Gia đình, Lời mở đầu, mục F; xem Đức Gioan Phaolô II, Tông huấn Familiaris consortio (Sự hiệp thông của gia đình), số 21.
[58]Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Evangelium Vitae (Tin Mừng Sự Sống), các số 91 và 94.
[59]Hiến chương về Quyền của Gia đình, Lời mở đầu, mục E.
[60]Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Evangelium Vitae (Tin Mừng Sự Sống) - Tin Mừng về sự sống, số 92.
[61]Hiến chương về Quyền của Gia đình, Lời mở đầu, các mục H–I.
[62]Đức Gioan Phaolô II, Tông huấn Familiaris consortio (Sự hiệp thông của gia đình), số 23–24.
[63]Như trên, số 25.
[64]Như trên, số 28–35; Hiến chương về Quyền của Gia đình, điều 3.
[65]Xem Tông huấn Familiaris consortio (Sự hiệp thông của gia đình) của Đức Gioan Phaolô II, số 20, và Hiến chương về Quyền của Gia đình, điều 6.
[66]Hiến chương về Quyền của Gia đình, điều 2, mục b và c; điều 7.
[67]Xem Familiaris consortio (Sự hiệp thông của gia đình), số 36–41; Hiến chương về Quyền của Gia đình, điều 5; và Thư gửi các gia đình Gratissimam sane, số 16.
[68]Xem Familiaris consortio (Sự hiệp thông của gia đình), số 42–48; Hiến chương về Quyền của Gia đình, điều 8–12.
[69]Hiến chương về Quyền của Gia đình, điều 1, mục c.
[70]Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Veritatis Splendor (Ánh rạng ngời của chân lý), số 4.
[71]Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Evangelium Vitae (Tin Mừng Sự Sống) - Tin Mừng của sự sống, số 20; xem thêm số 19.
[72]Đức Gioan Phaolô II, Tông huấn Familiaris consortio (Sự hiệp thông của gia đình), số 6; xem thêm Gratissimam sane - Thư gửi các gia đình, số 13.
[73]Công đồng Trentô, các phiên họp VII và XXIV.
[74]Đức Gioan Phaolô II, Tông huấn Familiaris consortio (Sự hiệp thông của gia đình), số 68.
[75] Xem Giáo lý Hội Thánh Công Giáo, số 1601.
[76] Xem Sách Sáng Thế, chương 1–2.
[77] Xem Đức Gioan Phaolô II, Diễn từ trước Tòa án Rota Roma, ngày 21/01/2000.
[78]Công đồng Vaticanô II, Hiến chế Gaudium et Spes – Vui mừng và Hy vọng, số 48.
[79]Sđd.
[80] Xem Bộ Giáo luật của Giáo hội Latinh (1983) và Bộ Giáo luật các Giáo hội Đông phương (1990).
[81] Công đồng Vaticanô II, Hiến chế Mục vụ Gaudium et spes (Vui mừng và hy vọng), số 49.
[82] Xem Đức Gioan Phaolô II, Tông huấn Familiaris consortio (Sự hiệp thông của gia đình), số 68.
[83] Sđd., số 81.
[84] Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Veritatis Splendor (Ánh rạng ngời của chân lý), số 93.
[85] Đức Gioan Phaolô II, Bài diễn từ trong buổi tiếp kiến chung ngày 5/9/1979. Với bài diễn từ này bắt đầu loạt bài giáo lý được biết đến với tên gọi “Giáo lý về tình yêu con người”.
[86] “Chúa Kitô không chấp nhận tham gia vào cuộc tranh luận theo cách mà những người đối thoại muốn đưa ra. Theo một nghĩa nào đó, Người không chấp thuận chiều kích mà họ gán cho vấn đề. Người tránh bị cuốn vào các cuộc tranh cãi mang tính pháp lý và trường hợp cụ thể; trái lại, Người đã hai lần quy chiếu đến ‘nguyên lý’.” — Đức Gioan Phaolô II, Bài diễn từ trong buổi tiếp kiến chung ngày 5/9/1979.
[87] “Không thể phủ nhận rằng con người luôn sống trong một nền văn hóa cụ thể, nhưng cũng không thể phủ nhận rằng con người không bị giới hạn trong chính nền văn hóa ấy. Thật vậy, sự tiến bộ của các nền văn hóa cho thấy rằng nơi con người tồn tại điều gì đó vượt lên trên văn hóa. Chính điều ‘gì đó’ ấy là bản tính của con người: chính bản tính này là thước đo của văn hóa, và là điều kiện để con người không bị giam hãm trong bất kỳ nền văn hóa nào, nhưng khẳng định phẩm giá cá nhân của mình khi sống phù hợp với chân lý sâu xa của bản thể mình.” — Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Veritatis splendor (Ánh rạng ngời chân lý), số 53.
[88] Luật tự nhiên “không là gì khác hơn ánh sáng của trí tuệ được Thiên Chúa đặt trong ta. Nhờ ánh sáng ấy, chúng ta nhận biết điều phải làm và điều phải tránh. Thiên Chúa đã ban ánh sáng và luật này ngay từ khi tạo dựng.” — Thánh Tôma Aquinô, Tổng luận Thần học (Summa Theologiae), phần I-II, câu 93, bài 3, trả lời thứ hai. Xem thêm: Đức Gioan Phaolô II, Veritatis splendor, các số 35–53.
[89] Đức Gioan Phaolô II, Veritatis splendor (Ánh rạng ngời chân lý), các số 62–64.
[90] Nhờ ân sủng của Bí tích Hôn phối, các đôi phối ngẫu “giúp đỡ lẫn nhau để đạt được sự thánh thiện trong đời sống vợ chồng và trong việc đón nhận cũng như giáo dục con cái.” — Công đồng Vaticanô II, Hiến chế Lumen gentium (Ánh sáng muôn dân), số 11. Xem thêm: Sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo, các số 1641–1642.
[91] Đức Gioan Phaolô II, Tông huấn Familiaris consortio (Sự hiệp thông của gia đình), số 81.
[92] Sđd., tiếp theo.
[93] Xem ở trên, các số 4–8.
[94] Đức Gioan Phaolô II, Tông huấn Familiaris consortio ( Sự hiệp thông của gia đình), số 81.
[95] Đức Gioan Phaolô II, Thư Gratissimam sane ( Thư gửi các Gia đình), số 29.
[96] Đức Gioan Phaolô II, Tông huấn Familiaris consortio ( Sự hiệp thông của gia đình), số 55.
[97] Đức Gioan Phaolô II, Tông huấn Familiaris consortio (Sự hiệp thông của gia đình), số 66.
[98] Hội đồng Giáo hoàng về Gia đình,Chuẩn bị cho Bí tích Hôn phối, số 1.
[99] Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Fides et Ratio (Đức Tin và Lý Trí), số 97.
[100] Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Evangelium Vitae (Tin Mừng Sự Sống), số 73.
[101] Đức Phaolô VI, Thông điệp Humanae Vitae (Sự Sống Con Người), số 29.
[102] Như trên.