GẶP GỠ
THIÊN CHÚA TRONG SỰ IM LẶNG CỦA LINH HỒN
Dom Augustin Guillerand
WHĐ (03.02.2024) – Chúng ta phải tập thói quen cầu nguyện mọi
nơi, mọi lúc. Nơi thực sự để cầu nguyện là linh hồn, vì Chúa ngự ở đó. Nếu
chúng ta muốn vâng theo lời khuyên dạy của Chúa, thì khi cầu nguyện, chúng ta
nên vào sâu trong linh hồn, đóng cửa lại và thưa chuyện với Chúa Cha, đôi mắt
yêu thương của Ngài luôn tìm kiếm đôi mắt của chúng ta. Căn phòng linh hồn sâu
kín của chúng ta là đền thờ đích thực, là nơi tôn nghiêm thánh thiêng, và chúng
ta mang đền thờ đó theo bên mình và có thể ở lại đó bất cứ lúc nào hoặc nếu
chúng ta buộc phải rời bỏ đền thờ đó, chúng ta có thể nhanh chóng quay trở lại đó.
Và chúng ta phải
biến đền thờ đó thành một nơi thực sự sạch đẹp và không tì vết. Tất nhiên, vẻ đẹp
thực sự của đền thờ là sự hiện diện của Chúa chúng ta. Trong đền thờ đó, Ngài
có thể cảm thấy như ở nhà, và Ngài đang ở nhà ấy nếu Ngài nhìn thấy những đặc
điểm của Ngài ở đó. Những đặc điểm này là những phẩm tính hoàn thiện của Ngài,
và khi những phẩm tính này được phản chiếu trong linh hồn, chúng được gọi là nhân đức. Linh hồn nào có được những phẩm
tính hoàn thiện đó thì đẹp đẽ với vẻ đẹp của Ngài; linh hồn đó hoàn thiện “như
Cha chúng ta trên trời là Đấng hoàn thiện”. Chữ như ở đây không có nghĩa là “nhiều như”; không hàm ý ngang nhau mà
là giống nhau.
Bằng cách thực
hành các nhân đức, chúng ta được tái tạo, nhờ các nhân đức đó, theo hình ảnh
Thiên Chúa và theo hình ảnh Người Con thần linh của Ngài, Đấng đã đến mạc khải
những đặc điểm của Chúa Cha cho chúng ta.
Trong nơi tôn
nghiêm được dành riêng này – một thiên đàng và vương quốc mới của Thiên Chúa –
sự cô tịch và im lặng phải ngự trị. Thiên Chúa ở một mình với chính Ngài. Các
Ngôi Thiên Chúa không ảnh hưởng đến sự cô tịch này; Các Ngôi thiết lập sự cô tịch
đó. Tình yêu vốn là sức mạnh làm sống động của Các Ngôi bao bọc Các Ngài khỏi tất
cả những gì không phải là chính Ngài. Thành đô của Thiên Chúa thì mênh mông nhưng
kín đáo. Chỉ một mình Thiên Chúa chiếm giữ thành đô đó và Ngài là Tất cả trong tất cả.
Linh hồn cầu nguyện
phải tái lập sự cô tịch này; linh hồn phải được lấp đầy bởi sự cô tịch đó để loại
trừ tất cả những thứ khác. Chính cuộc tâm sự tiếp sau đó là một thứ im lặng.
Lời nói và sự im
lặng không đối nghịch nhau; chúng không loại trừ nhau. Điều đối lập với sự im lặng
không phải là khả năng nói mà là ngôn từ - tức là sự lắm lời. Chúng ta nhầm lẫn
sự im lặng của hiện hữu với sự im lặng của “hư không”, vốn không biết cách nói
cũng không biết cách im lặng. Tất cả những gì sự im lặng của “hư không” có thể
làm là trở nên náo động, rồi sau đó không còn biết gì nữa. Và nó làm điều này bằng
những chuyển biến hời hợt ngoài mặt phản chiếu cái hư không bên trong nó.
Và đó là lý do tại
sao nó nhiều lời. Nó nói chẳng bao nhiêu nhưng bằng rất nhiều từ; hoặc nó dùng
những từ ngữ không nói lên được điều nó nghĩ. Thiên Chúa chỉ cần một Lời để bày
tỏ chính Ngài một cách trọn vẹn, và chúng ta hướng tới chính sự hiệp nhất (của
Lời) khi ở một mình với Thiên Chúa. Ngài đã trở thành tất cả, và chúng ta cũng nói
với Ngài như thế - chúng ta còn có thể nói gì thêm nữa?
Đó là sự im lặng
của linh hồn khi hồi tâm trong chính mình và tràn đầy Đấng mà linh hồn tìm thấy
ở đó. Đó là sự im lặng của những đêm dài mà Chúa Giêsu đã trải qua trên sườn
núi khi Ngài cầu nguyện với Thiên Chúa. Đó là sự im lặng của Vườn Giếtsimani
hay Núi Sọ, chỉ bị phá tan bởi một ít lời dành cho chúng ta.
Các nhà thờ là
nơi cầu nguyện chung. Nhà thờ phải tạo ra những đặc điểm của Thiên Chúa và những
đặc điểm của những linh hồn vốn cần đến thân xác để diễn tả bản thân. Các nhà
thờ phải đem đến cho thân xác những lối bước giúp thân xác hướng
thẳng lên Thiên đàng hoặc tan dần đi trong mầu nhiệm chưa sáng tỏ.
Các nhà thờ phải tách
khỏi trần thế và những tiếng ồn của thế gian, đồng thời tạo thành một điểm
trung tâm để chung quanh đó mọi thứ đều nhắm đến việc thu hút các năng lực của linh
hồn, tập trung và thống nhất các năng lực ấy cũng như khơi gợi tình yêu của
chúng ta. Các nhà thờ phải biểu lộ những vẻ đẹp hoàn toàn vượt quá chúng ta; nhà
thờ phải mang lại cho chúng ta một sự bình an không đến từ những thụ tạo nhưng lôi
kéo chúng ta vượt lên trên chúng. Các nhà thờ phải tạo ra sự hòa hợp tuyệt vời
giữa tự nhiên và siêu nhiên, trong đó Đấng tạo dựng cả vật chất và tinh thần được
mặc khải. Sự hiện diện của Ngài tỏa sáng và tình yêu của Ngài thu hút chúng ta.
Chúng ta phải hít thở Ngài qua từng lỗ chân lông của con người chúng ta, giống
như chúng ta hít thở không khí. Một nơi thờ phượng không gợi lên sự đáp ứng này,
và linh hồn khi bước vào đó không đáp ứng lại lời kêu gọi đó, thì không trung thực
với chính mình và lừa dối những người khác.
Vào trong căn phòng nội tâm của bạn
Thiên Chúa là lò
lửa tình yêu. Việc cầu nguyện đưa chúng ta đến gần Ngài, và khi đến gần Ngài,
chúng ta được ngọn lửa của Ngài bắt lấy. Linh hồn được nâng lên nhờ tác động của
ngọn lửa này, đó là một loại hơi thở tâm linh giúp linh hồn trở nên thánh
thiêng và cuốn linh hồn đi. Linh hồn tự giải thoát khỏi mọi thứ đè nặng lên mình,
vốn giữ linh hồn gắn bó với trần gian mệt mỏi này. Tác giả Thánh vịnh so sánh
hơi thở này với hương trầm. Giờ đây, hương trầm là một biểu tượng được biết đến
rộng rãi và đặc biệt phong phú. Nhưng từ tất cả những chất liệu mà lửa đốt cháy
dưới dạng ngọn lửa hoặc sức nóng, sẽ có một chuyển động khiến hương trầm lan rộng,
tăng lên bằng cách tự lan truyền tới mọi thứ chung quanh.
Chuyển động của linh
hồn cầu nguyện có điều gì đó đặc biệt. Linh hồn đi ra khỏi chính mình nhưng vẫn
ở trong chính mình. Linh hồn chuyển từ trạng thái tự nhiên sang trạng thái siêu
nhiên; từ chính mình trong chính mình đến chính mình trong Thiên Chúa. Thoạt
nhìn, những biểu hiện này có vẻ lạ kỳ. Mầu nhiệm không nằm trong những thực tại
nhưng trong sự hiểu biết của chúng ta về những thực tại. Tâm trí chúng ta không
quen với những thực tại này; chúng ta phải làm quen với chúng.
Linh hồn của
chúng ta là một ngôi nhà có nhiều gian. Trong gian thứ nhất, linh hồn ở đó cùng
với thân xác; nghĩa là với tất cả sự nhạy cảm của cơ thể.
Linh hồn thấy khi
mắt thấy, nghe khi tai nghe. Linh hồn di chuyển bằng cơ bắp; linh hồn ghi nhớ,
tưởng tượng và thẩm định khoảng cách khi chúng ta tham gia vào tất cả các hoạt
động vốn là nền tảng chung cho hành động của linh hồn với thân xác. Trong gian thứ
hai, linh hồn ở một mình và hành động một mình. Thân xác có ở đó - luôn ở đó -
nhưng thân xác không còn hành động nữa; thân xác không tham gia vào hoạt động của
linh hồn. Chỉ có linh hồn suy nghĩ và yêu thương. Thân xác cùng với các giác
quan của thân xác chuẩn bị chất liệu và các yếu tố, những điều kiện cho hoạt động
tâm linh này, nhưng thân xác không dự phần vào việc tạo ra hoạt động đó. Căn
phòng đó đã đóng cửa; linh hồn ở đó một mình và cư ngụ ở đó một mình.
Trong nơi cư ngụ
tâm linh đó có một phần còn sâu xa hơn nữa. Đó là nơi cư ngụ của Đấng hiện hữu, Đấng truyền thông chính Ngài và làm cho chúng ta “hiện hữu”. Chúng ta
đã quá quen với việc sống hướng ngoại (và các đối tượng của giác quan khiến
chúng ta hướng ngoại như vậy), chúng ta hiếm khi mở cánh cửa căn phòng này và
hiếm khi nhìn ngó đến nó; nhiều người chết mà không bao giờ hỏi xem căn phòng
đó có tồn tại không. Người ta hỏi: “Thiên Chúa ở đâu?” Thiên Chúa ở đó - trong những
đáy sâu bản thể của họ - và Ngài ở đó để thông truyền sự hiện hữu cho họ. Con
người không phải là ĐẤNG TỰ HỮU, không phải là Đấng ban sự sống cho tất cả những
thứ khác. Con người nhận được sự hiện hữu; một phần hiện hữu vốn dĩ không phụ
thuộc vào họ. Họ nhận được một phần sự sống đó trong một thời gian nhất định và
dưới những hình thức nhất định. Và từ “cõi bên kia” của Ngài, Thiên Chúa ban
cho họ sự sống. Họ chỉ sống nhờ quyền năng của Ngài và chỉ là những gì Ngài cho
phép họ trở thành. Ngài là nguồn gốc của mọi việc họ làm và cho dù họ có mong
muốn tiếp tục những hoạt động đó đến mức nào đi nữa thì họ cũng không thể làm
được nếu không có Ngài ở đó. Để hiểu điều này, chúng ta phải suy nghĩ rất nhiều,
và phải hồi niệm – có lẽ là hình thái cao cả nhất mà hành vi con
người có thể thực hiện – vốn dĩ đã nhường chỗ cho hành động bên ngoài và biến động
tại chỗ, cả hai đều là điểm chung cho động vật và vật chất.
Linh hồn cầu nguyện
sẽ bước vào “căn phòng tiệc ly” này. Linh hồn
đặt mình trước sự hiện diện của Đấng tự hiến chính mình và bước vào sự thông
truyền với Ngài. Thông truyền có
nghĩa là có chung một điều gì đó và, nhờ yếu tố chung này, trở nên một. Chúng ta
chạm vào, chúng ta nói chuyện, chúng ta cởi mở với nhau. Không có “điều gì đó”
này, chúng ta vẫn ở xa nhau; chúng ta không “giao tiếp”. Thiên Chúa là tình
yêu. Chúng ta bước vào sự giao tiếp với Ngài khi chúng ta yêu thương và trong mức
độ chúng ta yêu thương. Linh hồn nào yêu thương và được Tình yêu đưa vào nơi
Tình yêu ngự trị thì có thể nói chuyện với Ngài. Cầu nguyện là cuộc tâm sự như
thế. Thiên Chúa sẽ không cưỡng lại tình yêu đang thỉnh cầu đó. Ngài đã hứa làm
theo ý muốn của những ai làm theo ý muốn của Ngài.
Yêu thương chính là
nhờ những cuộc giao tiếp thiêng liêng này, những cuộc giao tiếp này đã khiến những
người tiếp nhận đầy vui sướng đó phải thốt lên những câu tuyệt vời nhất. “Lạy
Chúa, xin ở lại, con khẩn xin dòng thác tình yêu của Chúa. Con không thể chịu đựng
thêm nữa.” Linh hồn, bị nhấn chìm và bị mê say, đã ngất đi dưới sức nặng của những
dòng nước lớn lao này và xin cho được thở một chốc lát, để có thể tiếp tục đón
nhận tốt hơn. Vị ẩn sĩ trong sa mạc, khi cầu nguyện, phải kiên trì dang tay ra,
để không bị cuốn hút say mê vào lời cầu nguyện của mình. Thánh nữ Maria Ai Cập,
Thánh Phanxicô Assisi, đã được nâng cao lên khỏi mặt đất và vẫn được giữ lại ở
trên cao bằng một sức mạnh lớn hơn trọng lượng cơ thể của các ngài.
Chuyển ngữ: Phêrô Phạm Văn Trung