DIỄN TỪ MỪNG LỄ GIÁNG SINH CỦA ĐỨC THÁNH CHA
DÀNH CHO GIÁO TRIỀU ROMA
WHĐ (23.12.2022) - Sáng ngày
22. 12. 2022, Đức
Thánh cha Phanxicô đã tiếp kiến các Hồng y và các thành
viên khác của Giáo triều Roma, đến chúc mừng ngài nhân dịp Giáng sinh và Năm mới. Sau lời chúc mừng của Đức Hồng y
Giovanni Battista Re, Niên trưởng Hồng y đoàn, Đức Thánh cha đã
dành cho cử toạ bài diễn văn chứa đựng nhiều chia sẻ sâu sắc. Sau đó, Đức Thánh cha ngồi tại chỗ và thân tình bắt tay chúc mừng từng
người tiến lên chào
thăm và chúc mừng ngài.
Dưới đây là nội dung bài diễn từ mừng lễ giáng sinh của Đức Thánh Cha
Anh chị em thân mến!
1. Một lần nữa Đức Chúa
ban cho chúng ta hồng ân cử hành
mầu nhiệm giáng sinh của Người. Mỗi
năm, khi quỳ gối trước Hài Nhi nằm trong máng cỏ (x. Lc 2:12), chúng ta có dịp
để nhìn đời mình từ ánh sáng đặc biệt
này. Đó không phải là ánh sáng vinh
quang của thế gian, mà là “ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và
chiếu soi mọi người” (Ga 1, 9).
Sự khiêm nhường của Con Thiên
Chúa, Đấng đến trong thân phận con người, là một trường học gắn liền với thực tại
của chúng ta. Giống như Đức Giêsu đã chọn sự nghèo khó, không chỉ đơn giản là
thiếu của cải, mà thiếu cả những thứ
cần thiết, thì mỗi chúng ta cũng được mời gọi trở về với những gì thiết
yếu của cuộc đời mình, để loại bỏ mọi thứ thừa thãi và có thể biến thành chướng
ngại trên con đường nên thánh. Và con đường nên thánh này không thể bị đánh đổi bởi bất cứ thứ gì.
2. Tuy nhiên, điều quan trọng
cần phải rõ ràng là khi nhìn lại cuộc
sống và quá khứ của mình, chúng ta phải luôn bắt đầu bằng việc hồi tưởng những
điều tốt đẹp đã lãnh nhận. Thật
vậy, chỉ khi ý thức được những điều tốt lành Đức Chúa đã làm cho mình, chúng ta
mới có khả năng đặt tên cho những điều ác mà chúng ta đã thực hiện hoặc phải gánh chịu. Ý niệm về sự khó nghèo sẽ nghiền nát chúng ta nếu nó
không đi kèm với nhận thức về tình yêu của Thiên Chúa. Do đó, thái độ nội tâm
mà chúng ta cần coi trọng hơn,
đó là lòng biết ơn.
Để giải thích về lòng biết ơn, Tin Mừng thuật lại câu chuyện
mười người phong cùi được Đức Giêsu chữa lành; nhưng chỉ có một người quay lại
cảm ơn Người, và đó là một người Samari (x. Lc 17,11-19). Hành động tạ ơn đã mang lại cho anh, ngoài sự chữa lành về thể xác, còn có sự cứu rỗi trọn vẹn (x. c. 19). Cuộc gặp
gỡ với những điều tốt lành mà Thiên Chúa đã ban cho anh không chỉ dừng lại ở bề
ngoài; nhưng còn chạm đến trái tim.
Vì vậy, nếu không liên lỉ thể hiện lòng biết ơn, rốt cuộc chúng ta sẽ chỉ liệt kê ra một danh sách những thất bại của mình và sẽ đánh mất điều quan trọng nhất, đó là những ân sủng mà Thiên Chúa
ban cho chúng ta mỗi ngày.
3. Nhiều điều đã xảy ra
trong năm qua, và trước hết,
chúng ta muốn tạ ơn Thiên Chúa vì mọi ơn lành mà Ngài
đã ban. Và, trong số những
phúc lành đó, phải kể đến sự hoán cải của chúng ta. Hoán cải là một câu chuyện
không bao giờ có điểm kết. Điều
tồi tệ nhất có thể xảy ra là chúng ta
nghĩ rằng mình không cần hoán cải nữa, cả ở cấp độ cá nhân lẫn cộng đoàn.
Hoán cải là học cách đón nhận sứ
điệp Tin Mừng ngày càng nghiêm túc hơn, và cố gắng đem ra thực hành trong cuộc sống của chúng ta. Vấn đề không chỉ đơn thuần là
tránh xa điều ác, mà là làm tất
cả những điều tốt có thể: đây
là hoán cải! Trước Tin Mừng,
chúng ta vẫn luôn như những đứa trẻ cần học hỏi. Việc cho rằng mình đã học được mọi thứ sẽ khiến chúng ta rơi vào sự kiêu ngạo thiêng liêng.
Năm nay đánh dấu kỷ niệm 60 năm
khai mạc Công đồng Vatican II. Biến cố của Công đồng là gì nếu không phải là một
cơ hội tuyệt vời để hoán cải đối với toàn thể Giáo hội? Như Thánh Gioan XXIII
đã nói: “Không phải Tin Mừng thay đổi, mà chính chúng ta bắt đầu hiểu Tin Mừng
hơn”. Sự hoán cải mà Công đồng đề nghị là nỗ lực để hiểu Tin Mừng hơn, và làm cho Tin Mừng trở nên thời
sự hơn, sống động hơn, và hữu hiệu hơn trong thời điểm lịch sử này.
Do đó, như đã xảy ra nhiều lần
trong lịch sử Giáo hội, cũng như trong thời đại hiện nay, chúng ta cảm thấy, với tư cách là một cộng đoàn tín hữu, được kêu gọi để hoán cải. Và hành trình này còn lâu mới kết
thúc. Suy tư hiện nay về tính hiệp hành của Giáo hội bắt nguồn từ niềm xác tín rằng hành trình hiểu biết sứ điệp của Chúa Kitô là vô tận và
không ngừng thách thức chúng ta.
Ngược lại với hoán cải là “thái độ cố định”, tức là ngầm tin rằng chúng ta không cần bất kỳ sự hiểu biết nào khác nữa về Tin Mừng.
Thật là một sai lầm khi muốn cô đọng sứ điệp của Đức Giêsu trong một hình thức
duy nhất có giá trị vĩnh viễn. Trái lại, hình thức phải có khả năng
thay đổi để bản chất luôn được giữ nguyên. Lạc
giáo thực sự không chỉ hệ tại
việc rao giảng một Tin mừng khác (x. Gl 1, 9), như Thánh Phaolô nhắc nhở, mà còn hệ tại ở việc ngưng diễn tả Tin mừng trong những
ngôn ngữ và phương thức đương thời, như thánh Tông đồ dân ngoại đã làm. Bảo tồn có
nghĩa là là giữ cho sống động chứ
không phải giam giữ sứ điệp của Chúa Kitô.
4. Tuy nhiên, vấn đề thực
sự mà chúng ta thường bỏ qua,
đó là sự hoán cải không chỉ giúp
chúng ta nhận ra điều ác để chọn điều thiện; mà còn khiến cho sự dữ phát triển, ngày càng trở nên quỷ quyệt hơn,
ngụy trang dưới những hình thức mới mẻ đến
nỗi chúng ta khó nhận ra. Đó là một cuộc chiến thực sự. Tên cám dỗ luôn quay trở
lại, và trở lại trong bộ dạng
được trá hình.
Trong Tin Mừng, Đức Giêsu dùng một
phép so sánh giúp chúng ta hiểu trận chiến này diễn ra vào những thời điểm và
theo những cách khác nhau như thế
nào: “Khi một người mạnh được vũ trang đầy đủ canh giữ lâu đài của
mình, thì của cải người ấy được an toàn. Nhưng nếu có người mạnh hơn đột nhập và thắng được người ấy, thì sẽ
tước lấy vũ khí mà người ấy vẫn tin tưởng và sẽ đem phân phát những gì đã lấy
được” (Lc 11, 21-22). Vấn
đề lớn trước hết của chúng ta
là chúng ta quá tin vào bản thân, vào các chiến
lược, và vào các chương trình
của mình. Đó là tinh thần “Lạc thuyết Pelagio” mà tôi nhắc đến nhiều lần. Thực ra, một số thất bại lại
là ân sủng, bởi vì chúng nhắc chúng ta rằng chúng ta đừng quá tin vào chính
mình, nhưng hãy tin vào một mình
Thiên Chúa mà thôi. Một số lần chúng ta sa ngã, ngay cả với tư cách là một Giáo
hội, là một lời kêu gọi mạnh mẽ để đặt
Chúa Kitô trở lại vị trí trung
tâm, vì: “Ai không đi với tôi là chống lại tôi, và ai không cùng tôi thu góp
là phân tán” (Lc 11, 23).
Đơn giản là như vậy.
Anh chị em thân mến, tố giác sự dữ, kể cả sự dữ đang âm thầm len lỏi
giữa chúng ta, là chưa đủ. Điều
chúng ta cần phải làm là quyết
định hoán cải khi đứng trước sự dữ ấy. Chỉ riêng việc tố
giác cũng có thể khiến chúng ta cho
rằng mình đã giải quyết được vấn
đề, nhưng trên thực tế, điều quan trọng là phải thay đổi để đảm bảo rằng chúng
ta không còn để mình bị giam cầm bởi logic của sự dữ, vốn thường là logic của thế gian. Theo
nghĩa này, một trong những đức
tính hữu ích nhất để thực hành là sự cảnh giác. Đức Giêsu dùng một ví dụ
nổi bật để minh họa sự cần thiết phải cảnh giác đối với chính chúng ta và đối với Giáo hội. Người nói: “Khi thần ô uế xuất khỏi một
người, thì nó đi rảo qua những nơi khô cháy, tìm chốn nghỉ ngơi. Mà vì tìm
không ra, nó nói: "Ta sẽ trở về nhà ta, nơi ta đã bỏ ra đi”. Khi đến nơi, nó thấy nhà được
quét tước, dọn dẹp hẳn hoi. Nó
liền đi kéo thêm bảy thần khác dữ hơn nó, và chúng vào ở đó. Rốt cuộc tình trạng
của người ấy lại còn tệ hơn trước” (Lc 11, 24-26). Sự hoán cải ban đầu của chúng ta khôi phục
lại một trật tự nhất định:
điều ác mà chúng ta đã nhận ra và cố gắng loại bỏ khỏi cuộc sống của mình đã rời xa chúng ta một cách hiệu quả; nhưng sẽ thật ngây thơ khi nghĩ rằng nó sẽ biến mất
trong một thời gian dài. Trên thực tế, ngay sau đó, nó tái xuất
trong một vỏ bọc mới. Nếu như trước
đây điều ác có vẻ thô lỗ và bạo lực,
thì bây giờ, nó hiện
lên tao nhã và tinh tế hơn. Chúng ta
cần nhận ra nó và một lần nữa vạch mặt nó. Cho phép tôi diễn đạt theo cách này, điều ác là “những con quỷ tao
nhã”: chúng xâm nhập một cách nhẹ nhàng mà chúng ta thậm chí không hề hay biết. Chỉ có thực
hành việc duyệt xét
lương tâm hằng ngày mới có thể giúp
chúng ta nhận ra chúng. Đây là lý do tại sao chúng ta thấy tầm quan trọng của
việc xét mình, đó là để canh
chừng ngôi nhà của chúng ta.
Ví dụ, vào thế kỷ XVII, có trường hợp nổi tiếng của các nữ tu ở Port Royal. Một trong những bề trên đan viện, Mẹ Angelica, đã có một khởi đầu rất tốt đẹp; Bà đã canh tân bản thân và đan viện “một cách đặc sủng”, thậm chí đuổi cả cha mẹ mình ra khỏi đan viện. Bà là một phụ nữ đầy phẩm chất, được sinh ra để lãnh đạo, nhưng sau đó bà trở thành linh hồn của cuộc kháng chiến Jansenist, thể hiện sự khép kín không khoan nhượng ngay cả khi đối diện với thẩm quyền giáo hội. Người ta nói về bà và các nữ tu của bà là "Trong sáng như thiên thần, kiêu hãnh như ác quỷ". Họ đã trục xuất được con quỷ, nhưng sau đó nó đã trở lại mạnh mẽ gấp 7 lần, và dưới vỏ bọc khổ hạnh và nghiêm ngặt, nó mang đến sự cứng nhắc và tự phụ cho rằng mình tốt hơn những người khác. Ma quỷ, sau khi bị trục xuất, luôn tìm cách quay trở lại; mặc dù nguỵ trang dưới một vỏ bọc khác, nhưng nó vẫn quay trở lại. Hãy cảnh giác!
5. Trong Tin Mừng, Đức
Giêsu kể nhiều dụ ngôn trước hết nhắm vào những người thông thái, các kinh sư và Pharisêu, để vạch
trần sự ảo tưởng tự cho mình là công chính và khinh thường người
khác (x. Lc 18, 9). Chẳng hạn,
trong những dụ ngôn về Lòng Thương
xót (x. Lc 15), Đức Giêsu kể chuyện con chiên lạc và chuyện người con thứ của người cha nhân hậu. Những câu chuyện này nhắc nhở chúng
ta rằng cách đầu tiên dẫn đến tội lỗi là bỏ nhà ra đi, lạc lối, và làm những điều sai trái rõ ràng. Nhưng trong những dụ ngôn này, Đức Giêsu cũng đề cập đến đồng bạc bị mất và người con trai
cả. Điều này đã mang lại sự
so sánh hiệu quả: chúng ta có thể bị lạc
ngay khi ở trong nhà, như trường hợp
đồng xu của người phụ nữ; và
chúng ta có thể sống một cách bất hạnh trong khi vẫn duy trì hình thức trung
thành với bổn phận, như đã xảy ra với người con cả của người cha nhân hậu. Nếu
như người bỏ nhà ra đi dễ
dàng nhận ra sự xa cách; thì với
người ở lại nhà, thật khó để nhận ra là mình đang sống trong địa ngục như thế nào, vì họ tin rằng mình chỉ
là nạn nhân, bị đối xử bất công bởi thẩm quyền
và, cuối cùng, bởi chính Thiên Chúa. Và bao nhiêu lần điều này xảy ra với chúng ta, khi chúng ta ở đây, ở nhà!
Anh chị em thân mến, có thể tất cả
chúng ta đều có kinh nghiệm về sự lạc lối, giống như con chiên đó, hoặc quay
lưng lại với Thiên Chúa như người con thứ đó. Đó là những tội lỗi khiến chúng ta bẽ mặt, và chính
vì lý do này, nhờ ân sủng của Thiên Chúa, chúng ta đã có thể đối diện với chúng một cách thẳng thắn. Nhưng vào thời điểm này, chúng ta cần chú ý nhiều
hơn đến thực tế là, về mặt hình thức, chúng ta hiện đang sống “ở nhà”,
bên trong các bức tường của cơ chế, phục vụ Tòa Thánh, ở trung tâm của thân mình
Giáo hội. Chính vì thế, chúng ta dễ sa vào cám dỗ nghĩ rằng mình an toàn, rằng
mình tốt lành hơn người khác, rằng mình không cần phải hoán cải nữa.
Tuy nhiên, chúng ta đang gặp nguy
hiểm hơn bất kỳ ai khác, bởi vì chúng ta bị vây bủa bởi “con quỷ thanh lịch”,
kẻ không bước vào cách ồn ào, nhưng đến
với những bông hoa trên tay. Thưa anh chị em, xin thứ lỗi cho tôi nếu đôi khi
tôi nói những điều nghe có vẻ gay gắt và cứng rắn; không phải vì tôi không tin
vào giá trị của sự ngọt ngào
và dịu dàng nhưng vì thật tốt khi
dành sự âu yếm cho những yếu đuối và
bị áp bức, và để có can đảm “làm khổ những ai được an ủi”, như Tôi Tớ
Chúa Don Tonino Bello thích nói. Vì đôi khi niềm an ủi của họ chỉ là trò bịp bợm
của ma quỷ chứ không phải là quà tặng của Thần Khí.
6. Cuối cùng, tôi
muốn dành một vài lời về chủ đề hòa bình. Trong số các tước hiệu mà ngôn
sứ Isaia dành cho Đấng Mêsia là tước
hiệu “Hoàng Tử Bình An” (9, 5).
Chưa bao giờ chúng ta lại cảm thấy khao khát hòa bình mãnh liệt như lúc này! Tôi nghĩ đến Ukraine
đang bị chiến tranh tàn phá, và cũng
nghĩ đến nhiều cuộc xung đột đang diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới. Chiến
tranh và bạo lực luôn là một thất bại. Tôn giáo không được cho phép mình để
thúc đẩy xung đột. Tin Mừng luôn là Tin Mừng của hoà bình, và không ai có thể
nhân danh Thiên Chúa để tuyên bố một cuộc chiến tranh là “thánh”.
Ở đâu sự chết chóc, chia rẽ, xung
đột và đau khổ của người vô tội
ngự trị, thì ở đó chúng ta chỉ có thể
nhận ra Chúa Giêsu chịu đóng đinh. Vào thời điểm này, tôi muốn hướng suy nghĩ của
chúng ta đến chính những người đang
đau khổ nhất. Những lời của
Dietrich Bonhoeffer được viết từ
trong tù có thể giúp ích cho
chúng ta: “Theo nhãn quan Kitô giáo, việc đón lễ Giáng
sinh trong phòng giam không phải là một vấn đề đặc biệt nghiêm trọng. Rất có thể,
nhiều người trong tòa nhà này sẽ cử hành lễ một Giáng sinh ý nghĩa và chân thực hơn so với những nơi mà
ngày lễ chỉ còn trên danh nghĩa. Một tù nhân hiểu rõ hơn bất kỳ ai khác rằng sự khốn khổ, đớn đau, nghèo đói, cô đơn, bất lực và tội lỗi,
dưới mắt Thiên Chúa, có một ý nghĩa hoàn toàn khác so với phán đoán của con người;
rằng Thiên Chúa hướng ánh mắt của Ngài về phía những người mà con người
thường ngoảnh mặt đi; rằng Chúa Kitô đã được sinh ra trong một chuồng bò vì
không có chỗ cho Người trong quán trọ; tất cả những điều này đối với một tù
nhân, là một tin mừng đích thực” (Letters and Papers from Prison,
Letter to his Father, 17 December 1943).
7. Anh chị em thân mến, nền
văn hóa hòa bình không chỉ được xây dựng giữa các dân tộc và các quốc gia mà còn bắt đầu trong tâm hồn của mỗi chúng ta. Trong khi phải đau khổ vì sự bành trướng của chiến
tranh và bạo lực, chúng ta có thể và phải góp phần cho hòa bình bằng cách cố gắng
loại bỏ khỏi tâm hồn mình mọi gốc rễ
của hận thù và oán giận đối với anh chị em sống bên cạnh chúng ta. Trong Thư gửi tín hữu
Êphêsô, chúng ta đọc thấy những lời này, những lời cũng được đọc trong Phụng vụ Giờ Kinh Tối: “Ðừng bao giờ chua
cay gắt gỏng, nóng nảy giận hờn, hay la lối thóa mạ, và hãy loại trừ mọi hành
vi gian ác. Trái lại,
phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, như
Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Ðức Kitô” (4, 31-32). Chúng ta có thể tự vấn: Có bao nhiêu cay đắng đang ở trong lòng chúng ta? Chúng ta nuôi dưỡng những cay đắng này bằng cái gì? Đâu là nguồn gốc của sự phẫn nộ thường
tạo ra khoảng cách giữa chúng ta và châm ngòi cho sự tức giận và oán hận? Tại
sao những lời vu khống, dưới
mọi hình thức lại trở thành cách duy nhất để chúng ta nói về thực tế?
Nếu thực sự muốn chấm dứt tiếng ồn
của chiến tranh và nhường chỗ cho hòa
bình, thì mỗi chúng ta phải bắt đầu từ chính mình. Thánh Phaolô nói rõ rằng sự tử tế, lòng thương xót và tha thứ là
phương dược sẵn có để chúng ta xây dựng hòa bình.
Tử tế là luôn chọn cách thức
tốt lành để bước vào mối tương quan với người khác. Không phải chỉ
có bạo lực bằng vũ khí, mà còn có bạo lực bằng lời nói, bạo lực tâm lý, bạo lực
bằng việc lạm dụng quyền bính,
và bạo lực ngầm của những lời đàm tiếu, gây ra rất nhiều tổn thương và hủy hoại
sâu sắc. Trước mặt Hoàng Tử Bình An,
Đấng đến trong thế gian, chúng ta hãy
hạ mọi loại khí giới xuống. Mong rằng đừng ai trong chúng ta lợi dụng
vị trí, và vai trò của mình để
hạ thấp người khác.
Lòng thương xót bao gồm việc
chấp nhận sự thật rằng người khác cũng có giới hạn của họ. Trong trường hợp này
cũng vậy, thật công bằng khi
thừa nhận rằng cá nhân và các thể chế, chính vì đều là con người, nên cũng có những giới
hạn. Một Giáo hội thuần khiết
dành cho những người thuần khiết chỉ là sự hồi sinh của Lạc thuyết Cathar. Nếu thế,
thì Phúc Âm và Kinh Thánh đã chẳng thuật lại cho chúng ta biết về những giới hạn và khuyết điểm của nhiều
người mà ngày nay chúng ta công nhận là những vị thánh.
Cuối cùng, tha thứ là luôn
cho người khác một cơ hội khác, nghĩa là hiểu rằng một người trở thành thánh
nhân dựa trên những nỗ lực của việc thử
và sửa sai. Đây là cách Thiên Chúa
luôn thực hiện đối với mỗi người chúng ta; Ngài luôn tha thứ, luôn nâng chúng ta dậy, và luôn cho chúng ta một cơ hội khác. Chúng ta cũng nên làm
như vậy. Anh chị em thân mến, Thiên Chúa không bao giờ mệt mỏi khi tha thứ, chỉ có chúng ta mới là những người mệt mỏi khi cầu xin sự tha thứ.
Để mọi cuộc chiến kết thúc, cần
phải có sự tha thứ. Nếu không thì công
lý sẽ trở thành sự trả thù, và tình yêu chỉ được coi là một hình thức của sự yếu
đuối.
Thiên Chúa đã trở thành một Hài Nhi, và Hài Nhi ấy, khi lớn lên, đã để
mình bị đóng đinh trên thập giá. Không có gì yếu đuối hơn một người bị đóng đinh, nhưng trong sự yếu đuối đó, quyền năng siêu phàm của Thiên Chúa đã được biểu lộ. Sự
toàn năng của Thiên Chúa luôn hoạt động trong sự tha thứ. Ước gì lòng biết ơn, sự hoán cải và bình an sẽ là
quà tặng của Lễ Giáng Sinh này.
Cầu chúc anh chị em một lễ Giáng sinh vui vẻ! Và một lần nữa, xin anh
chị em đừng quên cầu nguyện cho tôi. Xin cảm ơn anh chị em!
Nt. Anna Ngọc Diệp, OP
Dòng Đa Minh Thánh Tâm
Chuyển ngữ từ: vatican.va (22. 12. 2022)