NGUYÊN VĂN BÀI PHỎNG VẤN ĐHY TAGLE
VỀ VIỆC TÒA THÁNH GIA HẠN HIỆP ĐỊNH VỚI TRUNG QUỐC
(Gia hạn Hiệp định để bảo đảm sự kế vị các Tông đồ trong đời sống Giáo Hội Trung Hoa)
Gianni Valente
WHĐ (28.10.2022) - Trả lời phỏng vấn của ông Gianni Valente – Giám đốc hãng hãng tin Fides của Bộ Loan Báo Tin Mừng cho Các Dân Tộc, Đức Hồng Y Luis Antonio Gokim Tagle giải thích lý do của việc gia hạn hiệp định tạm thời với Trung Hoa là nhằm đảm bảo rằng các giám mục Công Giáo Trung Hoa có thể thực thi chức vụ của họ trong sự hiệp thông hoàn toàn với Đức Giáo Hoàng, cũng như nhằm bảo vệ đời sống bí tích của Giáo Hội Công Giáo tại Trung Hoa.
Bằng những lời nhẹ nhàng và cẩn trọng, Đức Hồng Y Luis Antonio Tagle giải
thích lý do Tòa Thánh quyết định gia hạn hiệp định tạm thời với Trung Hoa về việc
bổ nhiệm các giám mục.
“Lý do của mọi thứ là để gìn giữ sự kế vị tông đồ hợp pháp và bản chất
bí tích của Giáo Hội Công Giáo ở Trung Hoa. Và điều này có thể củng cố, nâng đỡ
và chấn hưng” các tín hữu Công Giáo Trung Hoa,” vị hồng y người Phi Luật Tân
cho biết.
Đức Hồng Y cũng gợi nhắc về cảm thức đức tin của rất nhiều tín hữu Công
Giáo Trung Hoa và mô tả đó như là “một chứng tá quý giá vốn thường nảy mầm
không phải trong những khu vườn được chăm bón và bảo vệ tốt, mà trên những mảnh
đất khắc nghiệt và gập ghềnh.” Đồng thời, ngài thừa nhận rằng “một số vết
thương cần thời gian và sự an ủi của Chúa để được chữa lành.”
Ngài cũng lưu ý rằng các Giám mục “không thể được coi là ‘những công chức’”
và khẳng định “các giám mục không phải là ‘những công chức của Đức Giáo Hoàng’
hay ‘của nhà nước Vatican’, mà là những người kế vị các Tông đồ.”
Dưới đây là toàn văn cuộc
phỏng vấn:
Thưa Đức Hồng Y, đâu là những tiêu chí khiến Tòa Thánh kiên trì với quyết
định được đưa ra cách đây 4 năm?
Hiệp định tạm thời giữa Tòa Thánh và Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa được ký kết vào năm 2018 liên quan đến các thủ tục lựa chọn và bổ nhiệm các
giám mục Trung Hoa. Đây là một vấn đề đặc biệt, chạm đến điểm cốt yếu trong đời
sống của cộng đồng Công Giáo ở Trung Hoa. Tại đất nước đó, các sự kiện lịch sử
đã dẫn đến những chia cắt đau đớn trong Giáo Hội, đến mức tạo ra một bóng đen
nghi ngờ lên chính đời sống bí tích. Vì vậy, có những điều đang bị đe dọa chạm
đến bản chất sâu xa của Giáo Hội và sứ mạng cứu độ của Giáo Hội.
Với hiệp định này, các nỗ lực được thực hiện để đảm bảo rằng các giám mục
Công Giáo Trung Hoa có thể thực hiện vai trò giám mục của mình trong sự hiệp
thông trọn vẹn với Đức Giáo Hoàng. Lý do của mọi thứ là để gìn giữ sự kế vị
tông đồ hợp pháp và tính chất bí tích của Giáo Hội Công Giáo ở Trung Hoa. Và điều
này có thể có thể củng cố, nâng đỡ và chấn hưng người Công Giáo tại Trung Hoa.
Tòa Thánh luôn nhắc lại bản chất tạm thời của hiệp định, vốn cũng chạm đến
một vấn đề sống còn đối với Giáo Hội và vì lý do này, nó không thể bị giảm xuống
thành một yếu tố phụ của một số chiến lược ngoại giao. Bất kỳ sự cân nhắc nào
mà bỏ qua hoặc che đậy đặc điểm cơ bản này của hiệp định đều dẫn đến một lối giải
thích chưa chính xác.
Bây giờ chưa phải là lúc đánh giá lại, ngay cả với hiệp định tạm thời.
Nhưng từ quan điểm của Đức Hồng Y, ngài thấy tiến trình đã được thực thi và những
hiệu quả của hiệp định như thế nào?
Kể từ tháng 9 năm 2018, sáu giám mục đã được tấn phong theo đúng các thủ
tục đã được thoả thuận trong Hiệp định. Các kênh và không gian cho việc đối thoại
vẫn mở và điều này đã phù hợp trong hoàn cảnh cho phép. Tòa Thánh, sau khi lắng
nghe chính phủ Trung Hoa cũng như các giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân, ý
thức hơn về thực tế này, nơi mà lòng trung thành với Đức Giáo Hoàng đã được gìn
giữ ngay cả trong những thời điểm và bối cảnh khó khăn, như một dữ liệu nội tại
của sự hiệp thông Giáo Hội. Việc lắng nghe những lập luận và phản đối của chính
phủ cũng khiến chúng tôi phải tính đến các bối cảnh và “não trạng” của những
người đối thoại với chúng tôi. Chúng tôi khám phá ra rằng những điều hoàn toàn
rõ ràng và gần như hiển nhiên đối với chúng tôi có thể là điều mới mẻ và chưa
được biết đến đối với họ. Đối với chúng tôi, điều này cũng đưa đến một một
thách đố để tìm ra những ngôn từ mới, những ví dụ mới có sức thuyết phục và
quen thuộc cho sự nhạy cảm của họ, giúp họ hiểu dễ dàng hơn những gì chúng tôi
thực sự quan tâm.
Và Tòa Thánh thực sự ưu tiên điều gì?
Ý định của Tòa Thánh chỉ ưu tiên lựa chọn các giám mục Công Giáo tốt của
Trung Hoa, những người xứng đáng và phù hợp để phục vụ nhân dân của họ. Nhưng
việc ưu tiên lựa chọn các giám mục xứng đáng và phù hợp cũng là lợi ích của các
chính phủ và chính quyền quốc gia, bao gồm cả chính phủ và chính quyền Trung
Hoa. Và một trong những mong muốn của Tòa Thánh là thúc đẩy hòa giải, và nhìn
thấy những chia cắt và xung đột trong lòng Giáo Hội do những đau khổ mà Giáo Hội
tại Trung Hoa đã trải qua được chữa lành. Một số vết thương cần thời gian và sự
an ủi của Chúa để được chữa lành.
Liệu có nguy cơ che giấu các vấn đề dưới bức màn của một sự lạc quan
mang tính giả định nào đó hay không, thưa Đức Hồng Y?
Kể từ khi tiến trình này bắt đầu, không ai thể hiện sự đắc thắng ngây
thơ. Tòa Thánh chưa bao giờ nói hiệp định này là giải pháp của mọi vấn đề. Người
ta luôn nhận thức và khẳng định rằng con đường còn dài, có thể gây mệt mỏi và bản
thân hiệp định có thể gây ra những hiểu lầm và mất phương hướng. Tòa Thánh
không làm ngơ và thậm chí không coi nhẹ những phản ứng khác nhau giữa những người
Công Giáo Trung Hoa trước hiệp định, nơi mà niềm vui của nhiều người đan xen với
sự bối rối của những người khác. Đó là một phần của tiến trình. Nhưng người ta
luôn phải vấy bẩn bàn tay của mình với thực tế vốn có của nó. Nhiều dấu hiệu chứng
minh rằng nhiều người Công Giáo Trung Hoa đã nắm bắt được nguồn cảm hứng mà Tòa
Thánh đang theo đuổi trong tiến trình đang diễn ra. Họ biết ơn và được an ủi vì
một tiến trình khẳng định trước tất cả mọi người sự hiệp thông trọn vẹn của họ
với Đức Giáo Hoàng và Giáo Hội hoàn vũ.
Chính quyền dân sự can thiệp vào sự lựa chọn các giám mục Trung Hoa.
Nhưng điều này dường như không mới hoặc không chỉ xảy ra đối với hoàn cảnh của
Trung Hoa…
Sự can thiệp của chính quyền dân sự vào sự lựa chọn các giám mục đã xảy
ra nhiều lần và dưới nhiều hình thức khác nhau trong suốt lịch sử. Ngay cả ở
Philippines, đất nước của tôi, các quy tắc của “Patronato Real” đã có hiệu lực
trong một thời gian dài, trong đó tổ chức của Giáo Hội phải phục tùng quyền lực
hoàng gia Tây Ban Nha. Ngay cả thánh Phanxicô Xaviê và các tu sĩ Dòng Tên đã thực
thi sứ mạng của họ ở Ấn Độ dưới sự bảo trợ của triều đình Bồ Đào Nha ... Đây chắc
chắn là những điều và bối cảnh khác nhau, vì mỗi trường hợp đều có đặc tính và
cách giải thích lịch sử của nó. Nhưng trong những tình huống như vậy, điều quan
trọng là thủ tục được sử dụng để bổ nhiệm các giám mục phải bảo đảm và bảo vệ
những gì giáo lý và kỷ luật của Giáo Hội công nhận là thiết yếu để sống sự hiệp
thông phẩm trật giữa Đấng kế vị thánh Phêrô và các giám mục khác, những người kế
vị các Tông đồ. Và điều này cũng xảy ra trong các thủ tục hiện đang được sử dụng
ở Trung Hoa.
Chính phủ Trung Hoa luôn kêu gọi “Hán hóa” (sinicization) Giáo Hội địa
phương …
Trong suốt lịch sử, Kitô giáo luôn sống trong các tiến trình hội nhập
văn hóa cũng như thích nghi với các bối cảnh văn hóa và chính trị. Thách thức ở
Trung Hoa cũng có thể chứng minh rằng việc thuộc về Giáo Hội không phải là trở
ngại để trở thành một công dân Trung Hoa tốt. Không có mâu thuẫn, không có hoặc
là-hay là, và thực sự việc bước theo các tông đồ trong đức tin có thể giúp các
Kitô hữu tốt cũng trở thành công dân tốt.
Ở giai đoạn này của tiến trình, và trước những chậm chạp và thất bại có
thể xảy ra, Tòa Thánh có thể dựa vào điều gì? Và người ta có thể tin tưởng điều
gì?
Cảm thức đức tin (sensus fidei) được làm chứng bởi rất nhiều tín hữu
Trung Hoa luôn mang lại an ủi. Một chứng tá quý báu, thường nảy mầm không phải
trong những khu vườn được chăm bón và bảo vệ tốt, mà trên những mảnh đất khắc
nghiệt và không bằng phẳng. Nếu tôi nhìn vào lịch sử Công Giáo ở Trung Hoa
trong những thập kỷ gần đây, đoạn thư của thánh Phaolô gửi tín hữu Rôma luôn đến
với tôi: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là
gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?... Nhưng trong mọi
thử thách ấy, chúng ta toàn thằng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta.” (Rm 8,35.37).
Nhiều tín hữu Trung Hoa đã kinh nghiệm những điều thánh Phaolô viết. Những khó
khăn, gian truân, nhưng cũng là chiến thắng do tình yêu của Đức Kitô dành cho họ.
Câu trả lời nào được đưa ra cho những người nói rằng Tòa Thánh, để thoả
hiệp với với chính quyền Trung Hoa, đã che giấu và phớt lờ những đau khổ và vấn
đề của người Công Giáo Trung Hoa?
Những đau khổ và khó khăn trong quá khứ và gần đây luôn luôn hiện hữu
trước cái nhìn của Toà Thánh về các sự kiện của Giáo Hội tại Trung Hoa. Ngay cả
những lựa chọn hiện tại cũng được thực hiện chính xác bắt đầu từ sự công nhận
và lòng biết ơn này đối với những người đã tuyên xưng đức tin của mình vào Chúa
Kitô trong những thời gian khó khăn. Trong cuộc đối thoại, Tòa Thánh tôn trọng
các đại diện của chính phủ Trung Hoa, nhưng không bao giờ phớt lờ và luôn đưa
ra những tình cảnh đau khổ của các cộng đồng Công Giáo, đôi khi nảy sinh từ những
áp lực và sự can thiệp không phù hợp.
Điều gì có thể giúp bộ máy chính trị Trung Hoa công nhận các giám mục “hầm
trú”?
Đây là một điểm luôn được cân nhắc trong cuộc đối thoại. Để ủng hộ giải
pháp của vấn đề này, có lẽ sẽ hữu ích khi ghi nhớ rằng tất cả các giám mục
không thể được coi là “những quan chức”: các giám mục không phải là “những quan
chức của Đức Giáo Hoàng” hay “của nhà nước Vatican,” mà là “những người kế vị
các Tông đồ; và các ngài thậm chí không thể được coi là “những quan chức tôn
giáo” của các bộ máy chính trị trên thế giới, hay như Đức Giáo Hoàng Phanxicô
nói, “các giáo sĩ của nhà nước.”
Sự nhầm lẫn liên quan đến nhiệm vụ giám mục và mối quan hệ giữa các giám
mục và Đức Giáo Hoàng dường như không chỉ tồn tại ở Trung Hoa ...
Có lần tôi nghe một hướng dẫn viên du lịch ở Đền thờ thánh Phêrô đang cố
gắng giải thích cho khách du lịch về hình ảnh và vai trò của Đức Giáo Hoàng
trong Giáo Hội. Người hướng dẫn viên cố gắng tìm những hình ảnh quen thuộc với
khách du lịch, “Giáo Hội giống như một công ty lớn, như Toyota hay Apple. Và Đức
Giáo Hoàng giống như giám đốc điều hành của ‘công ty’ này.” Khách du lịch có vẻ
hài lòng với lời giải thích này, và chắc chắn trở về nhà với ý tưởng này dù
chúng không hoàn toàn phù hợp với vai trò thực sự của Đức Giáo Hoàng là Giám đốc
điều hành và của Giáo Hội với tư cách là một doanh nghiệp kinh tế và tài chính
...
Đức Hồng Y được Đức Giáo Hoàng Phanxicô gọi về Rôma để đảm trách Tổng
trưởng Bộ Loan báo Tin Mừng cho các Dân tộc, Đức Hồng Y có ấn tượng gì về những
hình thức và năng lượng mà người Công Giáo Trung Hoa sống ơn gọi truyền giáo của
họ ngay cả đối với vô số đồng bào chưa biết Chúa Giêsu?
Tôi thấy rằng các giáo xứ và cộng đồng thực hiện công việc mục vụ và bác
ái với lòng nhiệt thành và sự sáng tạo trên khắp Trung Hoa. Hàng năm có nhiều lễ
rửa tội mới ngay cả cho những người lớn. Đây là một hoạt động tông đồ do các cộng
đồng Công Giáo Trung Hoa thực hiện hàng ngày, luôn phù hợp với những đề nghị của
Huấn Quyền, ngay cả trong nhiều giới hạn. Trong những năm gần đây, các cộng đồng
Công Giáo Trung Hoa đã sống cách mạnh mẽ Năm Đức Tin, Năm Thánh Lòng Thương
Xót, và nhiều sáng kiến bác ái trong thời Covid. Ngay cả khi tôi sống ở Manila,
tôi luôn bị ấn tượng bởi chứng tá của những người Công Giáo Trung Hoa và các cộng
đồng khác từ các quốc gia nơi họ sống trong các điều kiện thiểu số và cũng
trong bối cảnh khó khăn. Những người Công Giáo Trung Hoa xa xứ cũng tiếp tục
giúp đỡ Giáo Hội ở Trung Hoa bằng nhiều cách, chẳng hạn bằng cách hỗ trợ xây dựng
các nhà thờ và nhà nguyện. Các Giáo Hội địa phương có ranh giới địa lý, nhưng
có một không gian nhân tính của sự hiệp thông Giáo Hội vượt ra ngoài các ranh
giới.
Mẹ của Đức Hồng Y có ký ức gì về đức tin của tổ tiên người Hoa của mình?
Mẹ tôi sinh ra ở Philippines, và bà lớn lên ở Philippines chứ không phải
ở Trung Hoa. Ông ngoại của tôi đã trở thành một Kitô hữu và đã lãnh nhận phép Rửa
tội. Ông là một người Công Giáo Trung Hoa rất cụ thể và “thực dụng”.
Vào ngày giỗ bà cụ, ông ngoại dâng hương và đồ ăn trước di ảnh bà cụ và
nói với các cháu: “Không ai được đụng vào đồ ăn này! Trước hết bà cụ phải nếm
thử trên trời, rồi mới đến lượt chúng ta…”
Ở một khía cạnh nào đó, kí ức của ông ngoại, giờ đây cũng giúp tôi xem
xét điều gì có thể hữu ích hơn trong cuộc đối thoại với chính phủ Trung Hoa.
Ngài đang đề cập đến điều gì?
Khi tôi tâm sự với ông ngoại về mong muốn được vào Chủng viện, ông nói với
tôi: “Ta đã không tưởng tượng rằng cháu sẽ trở thành một linh mục… Ta không hiểu
thế giới của các linh mục!” Tôi cảm thấy hơi buồn, và sau đó ông nói thêm: “Ta
không hiểu, nhưng ta vẫn muốn cháu trở thành một linh mục tốt.” Bây giờ, khi
xem xét cuộc đối thoại với chính phủ Trung Hoa về các vấn đề của Giáo Hội, tôi
nghĩ rằng đôi khi tốt hơn nên tìm kiếm những lập luận đơn giản và trực tiếp, để
đáp ứng cách tiếp cận cụ thể và thực dụng của những người đối thoại với chúng
ta. Không thể mong đợi họ hiểu biết sâu sắc mầu nhiệm Giáo Hội, được Chúa Thánh
Thần linh động. Tôi cũng khó giải thích cho ông tôi về nguồn gốc ơn gọi linh mục
của tôi… Và điều quan trọng là tôi phải tính đến mong muốn đơn giản của ông rằng
tôi sẽ là một linh mục tốt.
Năm 2022 đánh dấu 400 năm thành lập Bộ Truyền bá Đức tin, nay là Bộ Loan
báo Tin Mừng cho các Dân tộc, một tổ chức đóng một vai trò quan trọng trong
hành trình của Giáo Hội tại Trung Hoa. Chúng ta nên nhìn việc kỷ niệm này như
thế nào? Liệu nó có đánh dấu sự kết thúc của một lịch sử?
Từ Văn Phòng của Bộ Truyền bá Đức tin, luôn có một cái nhìn có tính tiên
tri đối với các sự kiện của Kitô giáo ở Trung Hoa. Hãy nghĩ đến vai trò của
Celso Costantini, đại diện Tông toà đầu tiên tại Trung Hoa thời hậu đế quốc và
sau đó trở thành Thư ký của Bộ Truyền bá Đức tin.
Về hiện tại và tương lai, lịch sử vĩ đại của Bộ Truyền bá Đức tin không
bị gạt bỏ và rơi vào quên lãng. Nhiều điều có thể thay đổi, và bối cảnh hiện tại
không còn là bối cảnh mà Bộ Truyền bá Đức tin được thành lập. Nhưng dòng chảy của
đức tin, niềm hy vọng và lòng bác ái được thông truyền qua Bộ Truyền bá Đức tin
không bị mất đi. Và nhiều hiểu biết xuất hiện trong các thời đại trước đây có
thể đề xuất các giải pháp và cách tiếp cận rất hiện tại và hoàn toàn phù hợp với
tình hình hiện nay. Đức Giáo Hoàng Phanxicô lặp lại rằng Thánh Truyền không phải
là một viện bảo tàng của những điều xưa cũ, mà là con đường của một thực tại sống
động trong đức tin. Các cấu trúc và hình thức được sinh ra như là sự đáp ứng
nhu cầu của một số thời điểm nhất định, nhưng khi các cấu trúc thay đổi, đời sống
đã kích ứng các cấu trúc ấy không hề phá sản.
Điều này cũng áp dụng cho Bộ Truyền bá Đức Tin. Đây là một tổ chức được
sinh ra trong những điều kiện lịch sử nhất định, nhưng sức sống tông đồ đó cũng
đã được công nhận và xác chuẩn tại Công Đồng Vatican II, nơi mà người ta nhắc lại
rằng toàn thể Giáo Hội được kêu gọi trở nên nhà truyền giáo trong mọi tín hữu.
Đã đến lúc phải nhận ra rằng mọi thực tại và cấu trúc của Giáo Hội đều được mời
gọi đến một cuộc hoán cải truyền giáo. Điều này đúng cho mọi cha xứ, cho mọi
giám mục. Tông huấn Evangelii Gaudium của Đức Giáo Hoàng Phanxicô cũng cho thấy
trong điều kiện hiện tại của Giáo Hội, mọi sự đối lập biện chứng giữa điều gì
là “mục vụ” và điều gì là “truyền giáo” dường như được vượt qua.
Mọi công việc, mọi sáng kiến mục vụ phải được sống với một trái tim truyền
giáo.
Tháng 10, tháng truyền giáo. Ngày Thế giới Truyền giáo năm nay được tổ
chức vào Chúa Nhật, ngày 23 tháng 10. Theo Đức Hồng Y, chúng ta nên tập trung
vào điều gì để tôn vinh một cách thoả đáng sự kiện truyền thống này, ở Trung
Hoa và trên toàn thế giới?
Năm nay, Sứ điệp cho Ngày Thế giới Truyền giáo của Đức Giáo Hoàng
Phanxicô có chủ đề: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy cho đến tận cùng trái đất”
(Cv 1,8). Chủ đề này lấy từ sách Công vụ Tông đồ. Và chứng tá mà Đức Giáo Hoàng
nói đến chính là chứng tá về đời sống Phúc Âm hóa của các Kitô hữu. Họ có thể tỏa
sáng trong đời sống hàng ngày, trong sự kiên trì trung thành và vui mừng của những
người đã được biến đổi và chữa lành nhờ cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu.
Đôi khi chúng tôi nghe nói rằng có nguy cơ “giảm bớt” sứ mạng đối với
các hoạt động xã hội. Và rằng cần phải loan báo Tin Mừng một cách rõ ràng và
riêng biệt để tạo một nền tảng cho các “hoạt động” ...
Trong những năng động của việc làm chứng và tuyên xưng đức tin Kitô
giáo, tôi dường như không nhận thức được những biện chứng rõ ràng này giữa việc
loan báo Tin Mừng và các hoạt động bác ái. Có lần tôi đi cùng với những người
đang mang hàng viện trợ đến một trại tị nạn, nơi không có người Kitô hữu. Một
trong những người tị nạn hỏi: Tại sao các bạn là những Kitô hữu lại lo lắng cho
chúng tôi? Tại sao bạn đi rất xa để đến đây mà không hề biết chúng tôi? Tôi trả
lời rằng chúng tôi chỉ theo Chúa Giêsu, Chúa của chúng tôi, bởi vì Ngài đã dạy
chúng tôi yêu thương và phục vụ mọi người. Lúc đó, một cô gái nói: Tôi muốn biết
Chúa Giêsu này. Một cử chỉ bác ái đã làm dấy lên nhiều câu hỏi. Tôi nghĩ rằng
Chúa Thánh Thần đã hoạt động trước sự tò mò của những người đặt câu hỏi. Nhờ
đó, trái tim có thể mở ra để loan báo Tin Mừng. Việc làm chứng chắc chắn có thể
được thực hiện bằng cách lặp lại những lời chân thật loan báo về sự cứu rỗi mà
Chúa Kitô đã hứa. Nhưng chứng tá sống động của đức ái tự nó đã là một sự công bố
Lời Chúa.
Văn Quynh, SJ