CHƯƠNG TRÌNH DƯỚI ÁNH SÁNG LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT 3
THƯỜNG NIÊN NĂM B
BÀI 50: ĐƯỢC
GỌI LÀM MÔN ĐỆ
Lm Gioan Nguyễn Thiên Minh, OP
và Nhóm Phiên Dịch Các giờ kinh Phụng vụ
WGPSG (18.01.2024) – Tin Mừng Chúa
nhật III Thường niên, năm B (Mc 1,14-20) kể lại việc Đức Giê-su gọi bốn môn đệ
đầu tiên bên Biển Hồ Ga-li-lê để họ trở thành “những kẻ lưới người như lưới cá”
(Mc 1,17). Trong bài học hỏi lần này, chúng ta sẽ tìm hiểu về ơn gọi
làm môn đệ Đức Giê-su.
Trong đời thường, chúng ta
thường nghe nói về ai đó đi tìm một vị thầy để xin thọ giáo mà người ta thường
gọi là “tầm sư học đạo”. Như vậy chính môn sinh chủ động tìm thầy, chọn
vị thầy lý tưởng để thọ giáo. Trái với đời thường, trong Kinh Thánh từ Cựu Ước
đến Tân Ước, chính Thiên Chúa chọn và gọi những ai Người muốn để trao ban cho họ
một sứ mạng và sai họ đi.
I. Ý nghĩa từ ơn gọi
Trong Tân Ước, hạn từ ơn
gọi khởi đi từ ý nghĩa động từ Hy-lạp ka-lê-ô (καλέω)
và danh từ klê-sis (κλῆσις). Từ ka-lê-ô có
nhiều nghĩa, ở đây chỉ nêu ra những nghĩa thường gặp là : gọi,
kêu gọi hay mời gọi một người nào đó, cũng
có nghĩa là triệu tập (x. Mt 2,7 ; 20,8). Ka-lê-ô cũng
mang ý nghĩa như một mệnh lệnh (x. Mt 25,14 ; Cv
4,18 ; 24,2) hoặc cũng có nghĩa là gọi tên hay đặt
tên cho ai như lời thiên sứ bảo ông Da-ca-ri-a rằng : “Ông
phải đặt tên cho con là Gio-an” (Lc 1,13) và với
thánh Giu-se rằng : “Ông sẽ gọi tên (καλέσεις) con
trẻ là Giê-su” (Mt 1,21).
Nghĩa sâu xa hơn cả của từ ka-lê-ô (καλέω)
chính là việc triệu tập, mời gọi của Thiên Chúa. Trong Cựu Ước,
từ những người lãnh đạo dân cho đến các ngôn sứ, đều do Thiên Chúa kêu gọi.
Cũng như từ ka-lê-ô của Tân Ước, động từ Híp-ri qa-ra (קָרָא) có nghĩa là gọi, đặt
tên (x. St 1,5.8 … ; 2,19-20) ; triệu tập (x.
Xh 19,7). Từ này cũng dùng khi diễn tả việc Thiên Chúa kêu gọi một
người để trao cho một sứ mạng, như chuyện ông Bi-lơ-am, được Đức Chúa kêu
gọi và sử dụng ông như một khí cụ để bảo vệ dân Người và thực hiện kế
hoạch kỳ diệu của Người (x. Ds 22). Rất nhiều trường hợp cho thấy việc kêu
gọi là sáng kiến của Thiên Chúa, Người chọn lựa theo ý muốn của
Người, như khi gọi Áp-ra-ham, một người đã già, không con cái, để
trở nên tổ phụ của một dân (x. St 12), hay như Mô-sê được
Chúa gọi từ giữa bụi cây cháy bừng (x. Xh 3,4). Như vậy trong
suốt dòng lịch sử, Thiên Chúa luôn hành động cùng với những con người để thực
hiện kế hoạch của Người nhằm cứu độ toàn thể nhân loại. Và theo từ ngữ của thần
học, chúng ta có từ ơn gọi hay ơn thiên triệu để
chỉ việc Thiên Chúa chọn và kêu gọi những kẻ Người muốn trao
ban một sứ mạng.
Trở lại với động từ ka-lê-ô (καλέω)
với nhiều nghĩa như đã nói ở trên, chúng ta chú ý cách riêng đến nghĩa ơn
gọi, đặc biệt là ơn gọi làm Ki-tô hữu, làm môn đệ Đức
Ki-tô.
Do động từ này, trước hết có
tính từ klê-tos (κλητός) có nghĩa là người
được gọi (Mt 22,14 : Kẻ được gọi thì nhiều mà người
được chọn thì ít). Thánh Phao-lô nhiều lần sử dụng từ này để chỉ những người
được gọi để trở thành Tông Đồ của Đức Ki-tô (x. Rm 1,1.6 ; 1 Cr
1,1), hay để trở thành dân thánh (x. Rm 1,7 ; 1 Cr 1,2).
Còn từ ơn gọi hầu
hết được tìm thấy trong các thư của thánh Phao-lô dưới dạng danh từ klê-sis (κλῆσις)
tất cả là 10 lần và 1 lần trong thư của thánh Phê-rô. Thánh
Phao-lô phân biệt ân sủng và ơn gọi (Rm
11,29). Người được ơn gọi không phải do sự khôn ngoan hay bởi
quyền thế của mình (x. 1 Cr 1,26) ; vì thế thánh nhân khuyên nhủ những ai
được kêu gọi thì phải sống xứng đáng với ơn gọi của
mình (x. Ep 4,1) ; và thánh Phê-rô cũng nhắn nhủ phải cố gắng làm
cho ơn gọi của mình được trở nên vững mạnh để không bị vấp ngã
(2 Pr 1,10).
II. Ơn gọi làm môn đệ Đức
Giê-su
Ngay từ những ngày đầu sứ vụ
rao giảng, Đức Giê-su đã kêu gọi một số người đi theo Người và
trở nên môn đệ của Người. Đức Giê-su không tìm đến những nơi quyền quý, những
đô thị hay kinh thành Giê-ru-sa-lem, với những học viện của các kinh sư, ở đó
không thiếu những người tài năng thông thái để tìm môn đệ. Trái lại, Chúa lại đến
miền Ga-li-lê, miền đất của dân ngoại (x. Is 8,23 / bản LXX) và Người đi dọc
theo bờ biển. Những người cư ngụ nơi đây chắc hẳn đa số sinh sống bằng nghề
chài lưới. Chính trong khung cảnh này, Đức Giê-su đã kêu gọi những môn đệ đầu
tiên : Si-môn và An-rê ; Gio-an và Gia-cô-bê (x. Mc 1,16.19). Đó là
những ngư dân chân chất, ít học, mưu sinh bằng sức lao động của mình. Bản văn
không nói ra, nhưng theo lẽ thường, các ông cũng đã nghe biết ít nhiều về Đức
Giê-su qua những lời rao giảng của Người. Nhưng để làm nổi bật sáng kiến của Đức
Giê-su khi chính Người lên tiếng kêu gọi các ông, đồng thời cũng đề cao thái độ
của các ông, sẵn sàng đáp lại tiếng gọi một cách quả cảm và quyết liệt, Tin Mừng
thuật lại : khi nghe Chúa gọi các anh hãy theo tôi, lập tức
các ông bỏ lại tất cả gia đình, nghề nghiệp để đi theo Người (x.
Mc 1,17.20).
Như vậy, để được trở nên môn
đệ của Đức Giê-su phải là những người được Chúa kêu gọi, tức là được ơn
gọi và sẵn sàng từ bỏ mọi sự để đi theo Người. Tin Mừng
theo thánh Mác-cô mô tả có rất nhiều người đi theo Đức Giê-su để nghe Người giảng
dạy (x. Mc 3,7-8), nhưng không phải tất cả đám đông đi theo Chúa đều là môn đệ
của Người, mà phải là những ai được Người kêu gọi để họ “ở với Người và để
Người sai đi” (Mc 3,14).
Tin Mừng Gio-an thì dùng kiểu
nói dành cho các môn đệ là “ở lại với Người” (Ga 1,39). Động từ ở
lại trong tiếng Hy-lạp là me-nô (μένω)
mang nhiều ý nghĩa : vẫn, mãi, luôn, vững chắc, tồn tại. Khi
đi với giới từ en (ἐν) có nghĩa là ở lại trong. Tin
Mừng thánh Gio-an, và đặc biệt trong các thư của ngài, từ me-nô (μένω)
được sử dụng có tới 20 lần. Người môn đệ đích thực phải là người ở
lại trong Đức Giê-su (x. Ga 8,31) thì mới có thể mang lại hiệu quả cho
sứ vụ của mình. Để minh hoạ cho việc người môn đệ phải ở lại trong
Người cần thiết như thế nào, Đức Giê-su đã dùng hình ảnh cây nho mà diễn tả :
“Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở
lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có
Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Và để làm rõ hơn, Chúa giải
thích việc ở lại trong Người tức là tuân giữ lời của Người,
tuân giữ các điều răn của Người (x. Ga 15,7.10).
Trong lời kêu gọi hai
ông Si-môn và An-rê có một chi tiết khá thú vị. Tin Mừng cho biết hai ông làm
nghề đánh cá (x. Mc 1,16), chính lúc hai ông đang làm công việc hằng ngày (quăng
lưới xuống biển) thì Đức Giê-su lên tiếng gọi :“Các anh hãy theo
tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới
cá” (c.17). Đức Giê-su dùng hình ảnh cụ thể lấy từ nghề nghiệp hiện
tại của các ông là nghề đánh cá, để hướng các ông đến một công việc mới, đó
là : thâu nạp những kẻ tin vào Nước Trời, giống như việc quăng lưới bắt
cá. Như thế, việc làm trước đây chỉ là công việc nhằm mục đích nhất thời là
phương kế sinh nhai ; nay các ông đi theo Thầy Giê-su để
tham dự sứ vụ trong chương trình cứu độ nhân loại của Thiên Chúa. Có thể nói lời kêu
gọi những môn đệ đầu tiên mang tính cách tiêu biểu cho mọi ơn
gọi. Rất nhiều trường hợp Chúa gọi người nào thì cũng gọi ngay trong những
sinh hoạt thường ngày của người ấy. Như ông Mô-sê được gọi
khi đang chăn chiên (x. Xh 3,1-2) ; như ông Ghít–ôn được
gọi khi đang đập lúa, để được trao sứ mạng giải thoát Ít-ra-en khỏi tay quân
Ma-đi-an (x. Tl 6,11-16) ; như Sa–mu–en được
gọi khi còn là cậu bé (x. 1 Sm 3,3-10) ; như A-mốt đang
chăn cừu thì được gọi làm ngôn sứ (x. Am 7,14-15) v.v… Đức Giê-su cũng
làm như thế, những người được gọi đi theo Chúa làm môn đệ :
người thì đang quăng lưới xuống biển (x. Mt 4,18-19 ; Mc
1,16-17), như Mát-thêu đang thu thuế (x. Mt
9,9 ; Mc 2,14 ; Lc 5,27-28) ; Na-tha-na-en đang ngồi dưới
cây vả (x. Ga 1,48) và thậm chí như Sao-lô đang hăng say bắt bớ các
môn đệ của Chúa (x. Cv 9,1-5 ; 22,4-7).
Qua mọi thời, biết bao
nhiêu ơn gọi đủ mọi sắc thái trong Hội Thánh, trong các dòng
tu, cộng đoàn, các gia đình, nơi các thánh, chính là những hoa trái của những ơn
gọi khác nhau, mà thánh Phao-lô đã giải thích rằng, Thiên Chúa “đã
ban ơn cho kẻ này làm Tông Đồ, người nọ làm ngôn sứ, kẻ khác làm
người loan báo Tin Mừng, kẻ khác nữa làm người coi sóc và dạy dỗ. Nhờ
đó, dân thánh được chuẩn bị để làm công việc phục vụ, là xây dựng
thân thể Đức Ki-tô” (Ep 4,1.11-12). “Thiên Chúa đã kêu gọi mỗi
người thế nào, thì cứ sống như vậy : đó là điều tôi truyền dạy trong mỗi Hội
Thánh” (1 Cr 7,17).
Tóm lại, mỗi tín hữu chúng ta
ở mọi bậc sống, đều mang trong mình một ơn gọi làm môn đệ của Đức
Giê-su, chúng ta được mời gọi sống cho xứng với ơn gọi
mà Thiên Chúa đã ban.
Cầu nguyện
Lạy Chúa, Ngài dò xét con
và Ngài biết rõ,
biết cả khi con đứng con
ngồi.
Con nghĩ tưởng gì, Ngài thấu
suốt từ xa,
đi lại hay nghỉ ngơi, Chúa
đều xem xét,
mọi nẻo đường con đi, Ngài
quen thuộc cả.
Miệng lưỡi con chưa thốt
nên lời,
thì lạy Chúa, Ngài đã am
tường hết.
Ngài bao bọc con cả sau lẫn
trước,
bàn tay của Ngài, Ngài đặt
lên con.
Kỳ diệu thay, tri thức
siêu phàm,
quá cao vời, con chẳng sao
vươn tới !
Tạng phủ con, chính Ngài
đã cấu tạo,
dệt tấm hình hài trong dạ
mẫu thân con.
Tạ ơn Chúa đã dựng nên con
cách lạ lùng,
công trình Ngài xiết bao kỳ
diệu !
Hồn con đây biết rõ mười
mươi.
Xương cốt con, Ngài không
lạ lẫm gì,
khi con được thành hình
trong nơi bí ẩn,
được thêu dệt trong lòng đất
thẳm sâu.
Con mới là bào thai, mắt
Ngài đã thấy ;
mọi ngày đời được dành sẵn
cho con
đều thấy ghi trong sổ sách
Ngài,
trước khi ngày đầu của đời
con khởi sự.
Lạy Chúa, xin dò xét để biết
rõ lòng con,
xin thử con cho biết những
điều con cảm nghĩ.
Xin Ngài xem con có lạc
vào đường gian ác
thì dẫn con theo chính lộ
ngàn đời. (Tv 139,1-6.13-16.23-24)
Nguồn: tgpsaigon.net