CHƯƠNG TRÌNH DƯỚI ÁNH SÁNG LỜI CHÚA
CHÚA NHẬT 23 THƯỜNG NIÊN NĂM A
BÀI 30: TÌNH HUYNH ĐỆ TRONG CỘNG ĐOÀN HỘI THÁNH
Lm. Gioan Nguyễn Thiên Minh, OP
và Nhóm Phiên dịch Các Giờ Kinh Phụng
WGPSG
(13.09.2023) – Đoạn Tin Mừng đọc trong Chúa nhật XXIII Thường niên tới (Mt
18,15-20) trích từ bài giảng thứ tư của Chúa Giê-su trong Tin Mừng Mát-thêu và
được gọi là “bài giảng về đời sống Hội Thánh” (Mt 18,1-35).
Trong bài học hỏi này, chúng ta cùng tìm hiểu về tình
huynh đệ trong cộng đoàn Hội Thánh trước khi nói đến việc sửa
lỗi huynh đệ như được nói đến trong bài Tin Mừng.
I. Tình huynh đệ trong Hội Thánh
Hạn từ “anh em” (huynh đệ) trong tiếng Híp-ri
là “ăkh” (אָח) và trong tiếng Hy-lạp là “a-del-phos” (ἀδελφος)] đều
nhằm chỉ đến tình huynh đệ theo huyết thống của những người cùng một mẹ
sinh ra, như hai anh em Ca-in và A-ben (x. St 4,2). Bên cạnh đó, từ ngữ “anh
em” này còn được dùng để chỉ đến những người cùng gia tộc (St 13,8 ; Lv 10,4),
cùng chi tộc (x. 2 Sm 19,12-13), hay cùng dân tộc (x. Đnl 25,3 ; Ed 18,18).
Ngoài ra, từ ngữ “anh em” cũng được dùng để chỉ đến mối tương quan giữa các dân
cùng tổ tiên như dân Ê-đôm là dòng dõi Ê-xau và dân Ít-ra-en thuộc dòng dõi
Gia-cóp (x. Đnl 2,4 ; Am 1,11).
Tuy nhiên từ ngữ “anh em” trong Kinh Thánh không chỉ giới hạn
ở tình huynh đệ theo huyết thống, mà Kinh Thánh còn sử dụng từ “anh em” để
chỉ đến tương quan giữa những người quí mến nhau (x. 2 Sm 1,26), giữa những người
cùng phục vụ một công việc chung (2 Sb 31,15), giữa những người bạn (x. G
6,15)… Chúa Giê-su cũng thường gọi các môn đệ là “anh em” (Mt 23,8), và Chúa khẳng
định những ai thi hành ý Chúa Cha đều là anh em của Ngài (Mt 12,50). Song song
đó từ ngữ “anh em” cũng dùng để chỉ những người cùng một đức tin trong Hội
Thánh (x. Cv 11,29 ; 1 Cr 5,11), chẳng hạn như thánh Phao-lô gọi các cộng
sự viên của ngài là “người anh em” (1 Cr 1,1 ; 2
Cr 1,1).
Tóm lại, hạn từ “anh em” được các Ki-tô hữu
tiên khởi sử dụng để diễn tả tình yêu huynh đệ dành cho nhau trong Đức Ki-tô,
và từ ngữ “anh em” được sử dụng rộng rãi nhằm trình bày tình yêu và tình huynh
đệ trong vương quốc của Chúa qua mọi thời. Và đó cũng là đặc tính để nhận
biết các cộng đoàn Ki-tô giáo thời sơ khai :
Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này
: là anh em có lòng yêu thương nhau (Ga 13,35).
II. Cộng đoàn Hội Thánh
Sau khi dùng một loạt dụ ngôn để giúp các môn đệ lãnh hội mầu
nhiệm Nước Trời (Mt 13,1-52), Chúa Giê-su bắt đầu thiết lập Hội Thánh (Mt
16,16-18), và Hội Thánh đó chính là cộng đoàn những người được chọn từ giữa thế
gian (x. Ga 15,19), nhưng không thuộc về thế gian (x. Ga 17,14-16). Và Chúa
Giê-su cho biết Hội Thánh ấy sẽ phát triển không ngừng trong mọi hoàn cảnh.
Tuy nhiên để Hội Thánh đạt được điều đó, Chúa Giê-su đã đưa ra những nguyên tắc
về “đời sống trong cộng đoàn Hội Thánh” mà người môn đệ phải tuân theo (Mt
18,1-35), trong đó có nguyên tắc [1] “sửa lỗi người anh em” và [2] “cầu nguyện
chung”.
1. Việc sửa lỗi anh em (Mt 18,15-18)
Các câu 15-18 của bài giảng về Hội Thánh như một khuôn mẫu
được đề ra nhằm trả lời cho câu hỏi : “Nên làm gì với những người có tội ?” Vấn
đề này cũng được thánh Lu-ca đề cập, nhưng mang tính nghiêm khắc hơn (x. Lc
17,4). Theo thánh Mát-thêu, cách cư xử với người phạm lỗi trong cộng đoàn Hội
Thánh được gợi hứng từ lòng thương xót và mang tính tiệm tiến. Theo đó, người
môn đệ phải thực hiện theo ba bước : [1] đi sửa lỗi với riêng người ấy ; [2]
đi cùng với hai hoặc ba nhân chứng, và [3] đi thưa với Hội Thánh.
a. Đi sửa lỗi với riêng người ấy (câu 15)
Câu 15a :“Nếu người anh em của anh trót phạm
tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với
nó mà thôi.
Tội được đề cập ở đây chắc chắn là một tội
công khai, chứ không chỉ đơn giản là một xúc phạm cá nhân, vì có một vài thủ bản
thêm “chống lại anh” (εἰς ϭε) có lẽ do ảnh hưởng của Lc
17,4 và cũng để hài hoà với câu hỏi của thánh Phê-rô ở câu 21: “Nếu anh
em con xúc phạm đến con…”.
Sửa lỗi động từ Hy-lạp e-len-khô [ἐλεγχω]
có nhiều nghĩa : sửa lỗi, khiển trách (x. Lc 3,19 ; Ga 3,20 ;
1 Tm 5,20), làm cho rõ, chứng minh (x. Ga 8,46) ; răn
bảo (x. Kh 3,19) v.v… và bản Bảy Mươi (LXX) đã dùng từ này để dịch câu
Lv 19,17:
Ngươi không được để lòng ghét người anh em, nhưng phải
mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, ngươi sẽ
khỏi mang tội vì nó (Lv 19,17).
Câu 15b “Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã chinh
phục được người anh em”.
Từ chinh phục do động từ ker-đai-nô
(κερδαινω) còn có nghĩa là “được lợi”, “sinh lợi”. Đây
là một thuật ngữ của Hội Thánh tiên khởi : tất cả việc sửa lỗi huynh đệ
này nhằm mục đích, để “thu phục” anh em (x. 1 Cr 9,19-21) chứ không phải để
“đánh mất anh em”. Đó chính là ý muốn của Chúa Cha trong câu trước đó :
Cũng vậy, Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không
muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất (c.14),
Và cũng là điều mà Chúa đã nói qua miệng ngôn
sứ Ê-dê-ki-en :
Ta chẳng vui gì khi kẻ gian ác phải chết, nhưng vui
khi nó thay đổi đường lối để được sống (Ed 33,11).
b. Đi với hai hay ba nhân chứng (câu 16)
Còn nếu nó không chịu nghe, thì hãy đem theo một hay
hai người nữa, để mọi công việc được giải quyết, căn cứ vào lời hai
hoặc ba chứng nhân.
Bước thứ hai này dựa theo tinh thần trong sách Đệ nhị luật
19,15 :
Phải căn cứ vào lời của hai nhân chứng hay căn cứ
vào lời của ba nhân chứng, sự việc mới được cứu xét (19,15).
Trong cả hai câu vừa nêu ra, từ được giải
quyết (Mt 18,16) và được cứu xét (Đnl
19,15) đều dịch từ một động từ Híp-ri và Hy-lạp có nghĩa là vững vàng,
chắc chắn, đứng vững, kiên cố hay củng cố.
Trong ngữ cảnh của đoạn văn Tin Mừng, việc có thêm hai hay
ba người không chỉ mang tính pháp lý, mà còn để có thêm người góp phần khuyên
nhủ theo tình huynh đệ, để người phạm lỗi được cảm thông và can đảm trở về.
c. Thưa với Hội Thánh (câu 17)
Nếu nó không nghe họ, thì hãy đi thưa Hội Thánh. Nếu
Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe, thì hãy kể nó như một người ngoại
hay một người thu thuế.
Từ “Hội Thánh” (ek-klê-si-a [ἐκκλησία]) chỉ được
đề cập hai lần trong Tin Mừng Mát-thêu : ở đây (Mt 18,17) và ở Mt 16,18 khi
Chúa Giê-su thiết lập Hội Thánh trên Đá Tảng Phê-rô; dù vậy có lẽ từ “Hội
Thánh” ở đây chỉ đến một cộng đồng Ki-tô hữu địa phương.
Vì có thể xảy ra trường hợp người phạm lỗi không chịu tiếp
nhận bất kỳ sự sửa lỗi nào (kể cả riêng tư cũng như công khai), thì trường hợp
đó có thể đi đến việc Hội Thánh quyết định xem người đó “như một
người ngoại hay một người thu thuế” (c. 17b), tức là “rút
phép thông công”. Và hành động ra “vạ tuyệt thông” này đã được Chúa Giê-su trao
cho Nhóm Mười Hai :
Dưới đất, anh em ràng buộc … trên trời cũng ràng buộc ;
anh em tháo cởi, trên trời cũng tháo cởi (c. 18).
Theo truyền thống ráp-bi, “cầm buộc” có
nghĩa là “cấm”, còn “tháo cởi” là “cho
phép”, nhưng theo nghĩa của Tin Mừng ở đây thì “cầm buộc” có
nghĩa là “rút phép thông công”, còn “tháo cởi” là
“tha thứ” (so sánh Ga 20,23 ).
Tuy nhiên, có lẽ nên hiểu hình phạt “rút phép thông
công” ở đây không có nghĩa là để loại trừ vĩnh viễn, nhưng nhằm răn đe để khơi
gợi khả năng hối cải của tội nhân vì sức mạnh đích thực mà Chúa ban cho Hội
Thánh của Người là bí tích của sự tha thứ, theo đó “tháo cởi” thì
tốt hơn là “cầm buộc”.
2. Cầu nguyện chung (Mt 18,19-20)
Thầy còn bảo thật anh em: nếu ở dưới đất, hai người
trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự
trên trời, sẽ ban cho.
Ngay cả khi mọi cách đều trở nên vô hiệu, thì vẫn còn một điều
nữa chúng ta có thể làm cho tội nhân, đó chính là cầu nguyện.
Các câu 19-20 nói về việc cầu nguyện chung, đây không phải
việc ngẫu nhiên mà phải đặt trong tương quan với điều trước đó, tức là
cc. 15-18 về việc phải làm khi một người anh em phạm lỗi, cùng với việc
người ấy không chịu hối cải, thì điều có thể làm và phải làm luôn luôn và bằng
mọi cách, đó là “hợp ý cầu nguyện nhân danh Chúa Giê-su”, vì đó
chính là cách giải quyết hiệu quả nhất. Bởi vì, khi có sự đồng tâm nhất trí
trong cầu nguyện, thì Chúa Cha, Đấng ngự trên trời sẽ ban cho, vì có Chúa
Giê-su hiện diện ở giữa cộng đồng (c. 20).
Kết luận
Việc sửa lỗi anh em trong cộng đồng không phải việc dễ dàng.
Việc này đòi hỏi phải khôn ngoan, tinh tế, thiện chí và can đảm. Kinh Thánh kể
lại trường hợp vua Đa-vít phạm tội, sau đó ngôn sứ Na-than được Chúa sai đến để
giúp vua nhận ra tội vua đã phạm. Vị ngôn sứ đã mở đầu bằng một ngụ ngôn, rồi
sau đó đã cho nhà vua biết tội của mình và chính vua phải thốt lên : “Tôi
đắc tội với Đức Chúa” và vua Đa-vít đã ăn năn sám hối. Kết quả là Đức
Chúa đã bỏ qua tội của nhà vua (x. 2 Sm 12,1-15).
Mỗi chúng ta, thưa quý ông bà và anh chị em, trong nhiều trường
hợp, chúng ta cũng là những tội nhân và chúng ta cần sự tha thứ. Vậy, chúng ta
cũng mượn lời vua Đa-vít qua Thánh vịnh 51 (50) để cầu nguyện kết thúc bài học
hôm nay :
Nguồn: tgpsaigon.net