Từ 9 giờ sáng, trong khi chờ đợi buổi lễ bắt đầu, ca đoàn hát thánh ca, rồi cộng đoàn đọc kinh Mân Côi, xen lẫn những bài hát do ca đoàn gồm 200 ca viên đảm trách.

Bên trái bàn thờ trên thềm Đền thờ Thánh Phêrô được dành cho các phái đoàn chính phủ và các nhà ngoại giao và nhiều tín hữu khác; bên phải dành cho 50 hồng y và đông đảo các nghị phụ và giáo sĩ, tu sĩ. Trên mặt tiền đền thờ có treo chân dung khổng lồ của 7 vị thánh mới.

Khác với những lần phong thánh trước đây, lần này theo quyết định của Đức Thánh Cha, lễ nghi phong thánh được cử hành trước khi thánh lễ bắt đầu. Đúng 9 giờ 20 chuông Đền thờ được đánh lên rồi 50 vị đồng tế gồm 6 hồng y, 18 giám mục và 26 linh mục có liên hệ đặc biệt với 7 tiến chức hiển thánh, cùng với Đức Thánh Cha đi rước từ bên trong Đền thờ ra lễ đài, trong khi ca đoàn hát kinh cầu các thánh.

Sau khi Đức Thánh Cha hôn và xông hương bàn thờ, rồi an tọa trên toà của ngài, Đức Hồng y Angelo Amato, Tổng trưởng Bộ Phong Thánh, cùng với 7 vị thỉnh nguyện viên tiến lên trước Đức Thánh Cha thực hiện nghi thức 3 lần thỉnh cầu ngài ghi tên 7 vị chân phước vào sổ bộ các thánh.

Đáp lại lời thỉnh cầu thứ I, Đức Thánh Cha mời gọi các tín hữu hiệp với ngài qua lời nguyện khẩn cầu ơn phù trợ của Chúa, của Mẹ Maria và các thánh cho việc làm hệ trọng chúng ta sắp thực hiện.

Rồi Đức Hồng y Amato lại thỉnh cầu Đức Thánh Cha lần thứ hai. Ngài đáp lại bằng lời mời gọi toàn thể cộng đoàn cầu xin ơn Chúa Thánh Thần phù trợ. Sau bài thánh ca Veni Creator, Đức Hồng y Tổng trưởng Bộ Phong thánh lại xin Đức Thánh Cha lần thứ ba và đáp lại, lần ngày ngài long trọng đọc công thức:

“Để tôn vinh Chúa Ba Ngôi, để tuyên dương đức tin Công Giáo và tăng cường đời sống Kitô, với quyền bính của Chúa Kitô, của hai thánh Tông Đồ Phêrô Phaolô và của Chúng Tôi, sau khi đã cầu nguyện lâu và suy nghĩ chín chắn, với ơn phù trợ của Chúa, sau khi lắng nghe ý kiến của nhiều anh em trong hàng GM, Chúng Tôi tuyên bố và xác định các chân phước: Jacques Berthieu, Phêrô Calungsod, Giovanni Battista Piamarta, Maria Carmen Sallés y Barangueras, Marianne Cope, Kateri Takakwitha và Anna Schaeffer là thánh và ghi tên các vị vào sổ bộ các thánh và truyền phải sốt sắng tôn kính các vị trong toàn thể Giáo Hội”.

Cộng đoàn tung hô Amen ba lần, trước khi thánh tích của các vị được rước lên đặt cạnh bàn thờ và được xông hương tôn kính, rồi ca đoàn và mọi người hát kinh Te Deum, tạ ơn Thiên Chúa:

Đức Hồng y Tổng trưởng Bộ Phong thánh tiến lên ngỏ lời cám ơn Đức Thánh Cha và thánh lễ được chính thức bắt đầu với bài ca nhập lễ, và diễn tiến như trong các thánh lễ Chúa nhật.

Sau đây là toàn văn bài giảng của Đức Thánh Cha:

ĐỨC GIÁO HOÀNG BÊNÊĐICTÔ XVI

BÀI GIẢNG

THÁNH LỄ PHONG THÁNH

Quảng trường thánh Phêrô

Chủ Nhật, ngày 21 tháng 10 năm 2012

“Con người đến để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc nhiều người” (Xc Mc 10,45).

Hôm nay, Giáo hội lại lắng nghe những lời này của Chúa Giêsu, được Chúa phán ra trong cuộc hành trình lên Giêrusalem, nơi Người sẽ hoàn thành mầu nhiệm thương khó, tử nạn và phục sinh của Người. Đó là những lời tôn vinh ý nghĩa sứ mệnh của Chúa Kitô trên trần gian, được đánh dấu bằng sự hy sinh, bằng sự hiến thân trọn vẹn của Người. Vào Chúa Nhật thứ ba của tháng Mười này, ngày chúng ta cử hành Khánh nhật Truyền giáo, Giáo hội lắng nghe những lời này với sự chú ý đặc biệt và đổi mới niềm tin của mình rằng mình phải luôn tận tụy phục vụ nhân loại và Tin Mừng, theo gương của Đấng đã hiến mình đến mức hy sinh mạng sống.

Tôi gửi lời chào nồng nhiệt đến tất cả mọi người đang có mặt tại Quảng trường Thánh Phêrô, đặc biệt là các phái đoàn chính thức và những người hành hương đã đến để mừng bảy vị thánh mới. Tôi gửi lời chào trìu mến đến các Hồng y và Giám mục, những người trong những ngày này đang tham gia Đại hội đồng về Tân Phúc âm hóa. Sự trùng hợp giữa cuộc họp của giáo hội này và Khánh nhật Truyền giáo là một sự trùng hợp hạnh phúc; và lời Chúa mà chúng ta đã lắng nghe đã soi sáng cho cả hai chủ đề. Lời Chúa cho thấy cách trở thành người truyền giáo, được kêu gọi làm chứng và công bố sứ điệp Kitô giáo, đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô và noi theo cùng một cách sống của Người. Điều này đúng cho cả sứ mệnh ad Gentes và cho công cuộc truyền giáo mới ở những nơi có nguồn gốc Kitô giáo lâu đời.

“Con người đến để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc nhiều người” (Xc Mc 10,45).

Những lời này trở thành chương trình sống của 7 vị Chân Phước mà hôm nay Giáo Hội long trọng ghi tên vào hàng ngũ vinh hiển của các thánh. Các ngài đã anh dũng dâng mạng sống mình, tận hiến cho Thiên Chúa và quảng đại phục vụ anh chị em đồng loại. Các vị là con cái của Giáo Hội, đã chọn con đường phục vụ noi gương Chúa. Sự thánh thiện trong Giáo Hội luôn có nguồn mạch từ mầu nhiệm cứu chuộc, được ngôn sứ Isaia báo trước trong bài đọc thứ I: Vị Tôi Tớ Chúa là người Công Chính “làm cho nhiều người nên công chính, Người mang lấy tội lỗi của họ” (Is 53, 11). Đó chính là Chúa Giêsu Kitô, chịu đanh, sống lại và đang sống trong vinh quang. Lễ phong thánh hôm nay là lời khẳng định hùng hồn về thực tại cứu độ huyền nhiệm ấy. Sự kiên trì của 7 môn đệ Chúa Kitô trong việc tuyên xưng đức tin, sự trở nên đồng hình dạng của các Vị với Con Người ngày hôm nay đang chiếu tỏa rạng ngời trong toàn Giáo Hội.

1. Trước tiên là cha Jacques Berthieu, sinh năm 1838 tại Pháp, sớm được Chúa Kitô chinh phục. Trong khi làm việc mục vụ giáo xứ, cha nồng nhiệt mong ước cứu vớt các linh hồn. Trở thành tu sĩ dòng Tên, cha muốn rong ruổi trên thế giới để làm vinh danh Chúa. Là mục tử không biết mệt mỏi tại đảo Santa Maria rồi tại Madagascar, cha tranh đấu chống lại bất công, nâng đỡ người nghèo và bệnh nhân. Người dân Madagascar coi cha như một LM đến từ trời, họ nói: Cha là “cha mẹ của chúng con!”. Cha trở nên mọi sự cho mọi người, kín múc trong kinh nguyện và trong lòng yêu mến Thánh Tâm Chúa Giêsu sức mạnh nhân bản và linh mục để đạt tới cuộc tử đạo vào năm 1896. Khi trút hơi thở cuối cùng, cha nói: “Tôi thà chết còn hơn từ bỏ đức tin của tôi”. Các bạn thân mến, ước gì cuộc sống của nhà truyền giáo này khích lệ và nêu gương cho các linh mục, để các vị trở thành những người của Thiên Chúa như thánh Berthieu! Ước gì tấm gương của thánh nhân trợ giúp các tín hữu Kitô đang bị bách hại ngày nay vì đức tin! Ước chi sự chuyển cầu của thánh nhân trong Năm Đức Tin này mang lại thành quả cho Madagascar và Phi châu! Xin Chúa chúc lành cho dân tộc Madagascar!

2. Pedro Calungsodsinh khoảng năm 1654, tại vùng Visayas bên Philippines. Tình yêu của thánh nhân đối với Chúa Kitô thúc đẩy Người trở thành giáo lý viên cùng với các thừa sai dòng Tên tại nơi ấy. Năm 1668, cùng với các giáo lý viên trẻ khác, Pedro tháp tùng cha Diego Luis de San Vitores tới quần đảo Marianas để rao giảng Tin Mừng cho dân tộc Chamorro. Cuộc sống tại đó rất vất vả cam go và các thừa sai bị bách hại vì ghen tương và vu khống. Nhưng Pedro đã chứng tỏ niềm tin và đức ái sâu xa, và tiếp tục dạy giáo lý cho nhiều tân tòng, làm chứng về Chúa Kitô qua cuộc sống khiết tịnh và tận tụy đối với Tin Mừng. Thánh nhân nồng nhiệt mong ước đưa các linh hồn về cùng Chúa Kitô, và điều này càng làm cho Người kiên quyết trong việc chấp nhận tử đạo. Pedro Calungsod qua đời ngày 2-4-1672. Các chứng nhân kể lại rằng Pedro tuy có thể thoát thân nhưng đã quyết định ở lại cạnh cha Diego. Vị linh mục đã ban phép xá giải cho Pedro trước khi bị giết. Ước gì tấm gương và chứng tá can đảm của thánh Pedro Calungsod gợi hứng cho các dân tộc yêu quí tại Philippines mạnh mẽ rao giảng Nước Chúa và đưa nhiều linh hồn về cùng Chúa.

3. Giovanni Battista Piamarta, linh mục giáo phận Brescia là đại tông đồ bác ái và của giới trẻ. Cha cảm thấy đạo Công Giáo cần phải hiện diện về văn hóa và xã hội trong thế giới tân tiến, vì thế cha tận tụy nâng cao đời sống Kitô, luân lý và nghề nghiệp cho các thế hệ trẻ với tấm gương rạng ngời của cha về tình người và lòng từ nhân. Được linh hoạt nhờ niềm tín thác không lay chuyển nơi Chúa Quan Phòng và với tinh thần hy sinh sâu xa, cha đương đầu với những khó khăn và vất vả để thành lập nhiều tổ chức tông đồ, trong đó có Học viện Artigianelli, nhà xuất bản Queriniana, Dòng nam Thánh Gia Nazareth, và dòng các nữ tỳ khiêm hạ của Chúa. Bí quyết cuộc sống khẩn trương và cần cù của cha chính là những giờ cầu nguyện lâu giờ. Khi bị tràn ngập công việc, cha gia tăng thời gian gặp gỡ, tâm sự với Chúa. Cha thích dừng lại trước Mình Thánh Chúa, suy niệm về cuộc khổ nạn, sự chết và sống lại của Chúa Kitô, để kín mục sức mạnh tinh thần và tái ra đi chinh phục tâm hồn tha nhân, đặc biệt là những người trẻ, để đưa họ trở lại nguồn sống với những sáng kiến mục vụ luôn mới mẻ”.

4. “Lạy Chúa, xin ban cho chúng con tình yêu Chúa: chúng con hy vọng nơi Chúa”. Với những lời này, phụng vụ mời chúng ta hãy nhận thánh ca này dâng lên Thiên Chúa Tạo Hóa và Quan phòng như của chúng ta, chấp nhận dự phóng của Chúa dành cho đời sống chúng ta. Thánh nữ Maria del Carmelo Sallés y Barangueras, đã làm như vậy. Người là nữ tu, sinh trưởng tại Vic bên Tây Ban Nha năm 1848. Khi thấy hy vọng của mình được thành tựu sau nhiều thăng trầm khi chiêm ngắm sự phát triển của Dòng các nữ tu Đức Mẹ Vô Nhiễm chuyên về giáo dục, mà Mẹ đã thành lập năm 1892, Mẹ đã có thể hát lên cùng với Mẹ Thiên Chúa: “Từ đời này đến đời kia, lượng từ bi của Chúa trải dài trên những người kính sợ Chúa”. Công trình giáo dục của Mẹ, được phó thác cho Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm, tiếp tục mang lại những hoa trái dồi dào nơi giới trẻ nhờ sự dấn thân quảng đại của các con cái của Mẹ, những người như Mẹ đã phó thác trong tay Chúa là Đấng có thể làm mọi sự.

5. Giờ đây chúng ta hãy hướng nhìn về thánh nữ Marianne Cope, sinh năm 1838 tại Heppenheim bên Đức. Khi mới được 1 tuổi, Marianne được đưa sang Hoa Kỳ và năm 1862 gia nhập dòng Ba Phanxicô tại viện ở Syracure New York. Sau đó với tư cách là Bề trên (tổng quyền) của dòng, Mẹ Marianna tự nguyện đón nhận ơn gọi chăm sóc những người cùi trong quần đảo Hawaii, sau khi nhiều người khác khước từ. Cùng với 6 chị em, Mẹ đến đó để điều khiển một nhà thương ở đảo Oahu, rồi sau đó lập nhà thương ở Malulani trên đảo Maui, mở một nhà cho các thiếu nữ con của những người cùi. 5 năm sau, Mẹ nhận lời mời mở một nhà cho các phụ nữ và thiếu nữ tại chính đảo Molokai, can đảm đích thân đến đó và chấm dứt liên lạc với thế giới bên ngoài. Tại đó Mẹ chăm sóc cha Damien, vốn nổi tiếng vì hạt động anh dũng nơi những người cùi, chăm sóc cha cho đến chết và tiếp nối cha nơi những người cùi nam giới. Khi còn có thể làm chút ít cho những người đau khổ vì căn bệnh kinh khủng này, Mẹ Marianne Cope chúng tỏ tình yêu, lòng can đảm và hăng say cao cả nhất. Mẹ là mẫu gương sáng ngời và mạnh mẽ về truyền thống Công Giáo tốt đẹp nhất trong việc săn sóc những chị em và theo tinh thần của thánh Phanxicô yêu quí.

6. Kateri Tekakwitha sinh năm 1656 tại nơi nay thuộc bang New York, thân phụ là người bộ lạc Mohak và mẹ mà tín hữu Công Giáo thuộc bộ lạc Algonchina, người đã thông truyền cho Kateri cảm thức về Thiên Chúa hăng sống. Kateri được rửa tội năm 20 tuổi, và tránh các cuộc bách hại, tị nạn đến cứ điểm truyền giáo thánh Phanxicô Xavie gần Montréal. Tại đó, Kateri làm việc, trung thành với truyền thống của dân tộc mình, và cũng từ bỏ những xác tín tôn giáo của bộ tộc, cho đến khi qua đời lúc 24 tuổi. Với cuộc sống đơn sơ, Kateri trung thành với tình yêu Chúa Giêsu, kinh nguyện và thánh lễ h;ăng ngày. Ước mong lớn nhất của Kateri là được biết Chúa và làm những gì đẹp lòng Chúa. Kateri mang lại cho chúng ta ấn tượng mạnh về hoạt động của ơn thánh trong cuộc sống của thánh nữ, - vốn không được những nâng đỡ từ bên ngoài,- và về lòng can đảm trong ơn gọi rất đặc biệt trong nền văn hóa của thánh nữ. Nơi Kateri, đức tin và văn hóa làm cho nhau được phong phú. Ước gì tấm gương của thánh nữ giúp chúng ta sống tại nơi chúng ta đang sở, mà không từ bỏ thực chất của chúng ta, yêu mến Chúa Giêsu! Lạy Thánh Nữ Kateri, bổn mạng của Canada và là vị thánh đầu tiên thuộc thổ dân bắc Mỹ, chúng con phó thác cho thánh nữ sự canh tân đức tin của các thổ dân trên toàn Bắc Mỹ! Xin Chúa chúc lành cho các thổ dân!

7. Anna Schaeffer người làng Mindelstetten, khi còn trẻ đã muốn gia nhập một dòng thừa sai. Vốn xuất thân từ gia đình khiêm hạ, Anna làm công trong một gia đình với ý định kiếm đủ tiền hồi môn để được đón nhận vào một tu viện. Trong công việc ấy, Anna bị tai nạn, bị phỏng nặng ở hai chân không thể lành được, khiến cô bị liệt giường suốt đời. Và thế là chiếc giường đau khổ trở thành căn phòng tu viện đối với Anna, và đau khổ trở thành hoạt động truyền giáo của thánh nữ. Thoạt đầu Anna than thân trách phận, nhưng rồi Anna tiến đến mức biết giải thích tình trạng của mình như tiếng gọi yêu thương của Đấng Chịu Đóng Đanh, mời gọi Anna bước theo Ngài. Được an ủi hằng ngày nhờ việc rước lễ, Anna trở thành một dụng cụ không biết mệt mỏi chuyển cầu bằng kinh nguyện và phản ánh tình thương của Thiên Chúa cho nhiều người đến xin Anna lời khuyên bảo. Ước gì hoạt động tông đồ bằng lời cầu nguyện và bằng đau khổ, hy sinh và đền tạ của thánh nữ là tấm gương rạng ngời cho các tín hữu tại quê hương, và ước gì lời chuyển cầu của thánh nữ củng cố phong trong Công Giáo Hospice, gồm những trung tâm săn sóc chống đau cho các bệnh nhân ở giai đoạn cuối đời, trong công tác phục vụ tốt lành.

Anh chị em thân mến, các vị thánh mới, tuy có nguồn gốc, ngôn ngữ, quốc tịch và hoàn cảnh xã hội khác nhau, nhưng đều liên kết với toàn thể Dân Chúa trong mầu nhiệm cứu độ của Chúa Kitô, Đấng Cứu Chuộc. Cùng với các ngài, cả chúng ta nơi đây, hiệp với các nghị phụ Thượng Hội đồng Giám mục đến từ các nơi trên thế giới, liên kết với những lời của Thánh Vịnh tung hô Chúa là “ơn phù trợ và là khiên thuẫn của chúng ta”, và chúng ta cầu xin Chúa: “Lạy Chúa, ước gì tình thương Chúa đổ trên chúng con, như chúng con hy vọng nơi Chúa' (Tv 32,20-22). Ước gì chứng tá của các vị thánh mới, cuộc sống các ngài quảng đại dâng hiến vì tình thương Chúa Kitô, nói với toàn thể Giáo Hội ngày nay, và lời chuyển cầu của các ngài củng cố và nâng đỡ Giáo Hội, trong sứ mạng rao giảng Tin Mừng cho toàn thế giới.

Tiếp tục thánh lễ

Trong phần rước lễ, 280 linh mục và phó tế đã tản ra các nơi ở quảng trường để mang Mình Thánh Chúa cho các tín hữu. Và chính Đức Thánh Cha đã cho hàng chục tín hữu rước lễ.

Cuối thánh lễ, vào lúc 11 giờ 40, Đức Thánh Cha chủ sự buổi đọc Kinh Truyền Tin. Trong lời nhắn nhủ trước khi đọc kinh, ngài mời gọi các tín hữu hướng về Mẹ Maria, Nữ Vương các thánh, và đặc biệt nghĩ đến Lộ Đức, bị lụt vì mưa lũ làm nước sông Gave dâng cao, ngập cả Hang Đá Đức Mẹ hiện ra. Đức Thánh Cha nói: “Đặc biệt hôm nay, chúng ta hãy phó thác cho sự bảo vệ từ mẫu của Mẹ Maria các thừa sai nam nữ, các linh mục, tu sĩ và giáo dân, đang gieo hãi hạt giống tốt lành của Tin Mừng. Chúng ta cũng hãy cầu nguyện cho Thượng HĐGM, trong những tuần lễ này đang đương đầu với thách đố tái truyền giảng Tin Mừng để thông truyền đức tin.

Bằng nhiều thứ tiếng, Đức Thánh Cha cũng chào thăm các phái đoàn chính quyền và các tín hữu đến tham dự lễ phong thánh. Sau kinh truyền tin, Đức Thánh Cha đã ban phép lành cho các tín hữu như mọi khi.

Các phái đoàn

Sau thánh lễ, tại nhà nguyện Đức Mẹ Sầu Bi trong đền thờ thánh Phêrô, các phái đoàn chính phủ đã được Đức Thánh Cha đặc biệt chào thăm:

Phái đoàn Philippines gồm 7 người do Phó Tổng thống Jejomar Binay hướng dẫn; phái đoàn Tây Ban Nha gồm 22 người do Bộ trưởng nội vụ Jorge Fernandez Díaz làm trưởng đoàn; Phái đoàn Pháp có 22 người do Bộ trưởng nội vụ Manuel Valls; phái đoàn Canada gồm 10 người do chủ tịch Hạ viện liên bang Ông Andrew Sheer; phái đoàn Italia có 10 người do bộ trưởng y tế Renato Balduzzi, phái đoàn Đức có 6 người cho Chủ tịch nghị viện bang Bavaria bà Barbara Stam hướng dẫn; phái đoàn Hoa Kỳ gồm 5 người do Đại sứ Miguel Diaz cạnh Tòa Thánh đại diện, và phái đoàn Madagascar có 6 người do bà Annick Rajaona, trưởng Văn phòng ngoại giao, cầm đầu.

Trong gần 8 năm làm Giáo Hoàng, Đức Thánh Cha Biển Đức 16 đích thân tôn phong 43 vị hiển thánh, kể cả 7 vị sáng 21-10-2012, và ngoài ra có hơn 600 vị chân phước được tôn phong, do Tông Thư của ngài, và thường là một vị Hồng Y, nhất là ĐHY Tổng trưởng Bộ Phong thánh, chủ sự các lễ phong chân phước. Đa số các vị chân phước được tôn phong trong thời gian qua là các vị tử đạo trong thời nội chiến tại Tây Ban Nha từ 1936 đến 1939.

Nguồn: archivioradiovaticana.va