CHƯƠNG TRÌNH DƯỚI ÁNH SÁNG LỜI CHÚA
LỄ CHÚA THĂNG THIÊN NĂM A
Bài 14: CHÚA GIÊSU ĐƯỢC ĐƯA LÊN TRỜI
Lm. I-nha-xi-ô Hồ Văn Xuân, Tổng
Đại Diện TGP. Sài Gòn
và NPD. CÁC GIỜ KINH PHỤNG VỤ
WGPSG
(17.5.2023) - Trong Kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng về Chúa Giê-su
rằng: “Người chịu khổ hình và mai táng, ngày thứ ba Người sống lại như lời
Thánh Kinh. Người lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha.”
Đây là một tín điều được Giáo Hội tuyên xưng ngay từ buổi sơ
khai, mà có lẽ các tín hữu thời bấy giờ đã dễ dàng đón nhận, vì thuở ấy vũ trụ
quan còn rất đơn sơ. Khi khoa học khám phá ra vũ trụ bao la, trái đất không còn
là một “mặt phẳng” cố định mà là một “quả đất” xoay vần trong không gian vô tận;
và trời cũng không chỉ giới hạn trong một cái vòm nhưng là một khoảng không vô
tận, thì khái niệm về không gian thay đổi, khiến cho không ít người đặt vấn đề
về chân lý khoa học trong Kinh Thánh.
Tuy nhiên, Kinh Thánh không chủ trương khoa học, mà là một
chân lý đức tin được trình bày bằng kiểu nói và hình ảnh bình dân, lấy từ vũ trụ
quan của người đương thời với tác giả, nên những điều được trình bày trong Kinh
Thánh không bao giờ sai lầm. Vậy trước khi nói về biến cố Thăng Thiên, chúng ta
hãy xem Kinh Thánh dạy gì về vũ trụ nói chung và trời nói riêng.
1. Trong Cựu Ước
Theo quan niệm của Kinh Thánh, vũ trụ là “trời và đất” (x.
St 1,1; 2,1) ; trời là nơi Thiên Chúa ngự trị, còn đất thì Chúa cho con
người cư ngụ (x. Tv 115,16). Trời gợi lên tính siêu việt bất khả xâm phạm của
Thiên Chúa, do đó nếu muốn tự mình đạt đến trời là một tội kiêu ngạo; tự xem
mình ngang hàng với Đấng Tối Cao, con người đã ngạo nghễ muốn xây tháp Ba-ben
chạm đến trời (x. St 11,4 : Is 14,13-14).
Trời được đề cập đến rất nhiều trong toàn bộ Kinh Thánh,
ngay từ câu đầu tiên: “Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất” (St
1,1), và cuối cùng được nhắc đến trong sách Khải huyền : “Bấy giờ tôi
thấy trời mới đất mới” (Kh 21,1). Điều đó cho thấy trời đất là một thực
tại quan trọng trong chương trình của Thiên Chúa và do Thiên Chúa sáng tạo ;
đó là tín điều đầu tiên trong Kinh Tin Kính : Tôi tin kính một
Thiên Chúa là Cha toàn năng, Đấng tạo thành trời đất.
Truyền thống Cựu Ước có nói đến hai trường hợp rất đặc biệt,
con người được cất lên trời nhờ quyền năng Thiên Chúa, trước hết là ông Kha-nốc:
“Sau khi đi với Thiên Chúa, ông không còn nữa, vì Thiên Chúa đã đem ông đi”
(St 5,24 ; Hc 44,16), người thứ hai là ngôn sứ Ê-li-a : “ĐỨC
CHÚA đem ông Ê-li-a lên trời trong cơn gió lốc” (2 V 2,1.11 ; 1 Mcb
2,58).
2. Trong Tân Ước
Đức Giê-su nhiều lần dùng kiểu nói: “Cha anh em, Đấng ngự
trên trời” (Mt 5,16.45.48 ; 6,1.14.26.32) cho thấy Thiên Chúa siêu việt
nhưng lại gần gũi con người, luôn đoái nhìn đến những người nghèo khổ thấp
hèn : “Ta ngự chốn cao vời và thánh thiện, nhưng vẫn ở với tâm hồn
khiêm cung tan nát, để ban sức sống cho tâm hồn những kẻ khiêm cung, và ban
sinh lực cho những cõi lòng tan nát.” (Is 57,15).
Không chỉ nói đến trời, Đức Giê-su còn tỏ cho chúng ta biết
Người là “Đấng từ trời đến” và Người quả quyết: “Không ai đã lên trời, ngoại
trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3,13; 6,38). Nhân loại không thể tự
sức mình đến được với Thiên Chúa, mà chỉ Chúa Giê-su mới có thể mở lối cho con
người đến sự sống và hạnh phúc của Thiên Chúa (x. Ga 14,6).
3. Chúa Giê-su được đưa lên trời
Trở lại với đề tài của chúng ta: Chúa Giê-su được “đưa lên
trời”, mà truyền thống phụng vụ gọi là lễ “Thăng Thiên”. Đây là một biến cố vượt
thời gian nhưng lại được diễn tả trong thời gian, vì ngay sau khi sống lại Chúa
Ki-tô đã được tôn vinh, cho nên những lần hiện ra của Chúa chính là những lần
Người trở lại từ thế giới vinh quang mà Người đã bước vào. Là một mầu nhiệm nên
các tác giả Tân Ước đã có những lối diễn tả khác nhau.
Thánh Mát-thêu không nói gì đến sự kiện lên trời, nhưng
trong lệnh truyền cuối cùng cho các môn đệ, Chúa Ki-tô Phục Sinh tuyên bố: “Thầy
đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất” (Mt 28,18). Lời
công bố cho thấy uy quyền tối thượng của Đấng đã chiến thắng tử thần và đang ngự
trong vinh quang thiên quốc.
Theo thánh Mác-cô thì sau khi trao phó sứ mệnh rao giảng Tin
Mừng cho các môn đệ, Chúa Giê-su được đưa lên trời và ngự bên hữu
Thiên Chúa (Mc 16,19). Động từ ἀναλαμβανω (a-na-lam-ba-nô) ở dạng
thụ động, nghĩa là Chúa Giê-su được đưa lên cao, hiểu là Chúa Cha
tôn vinh Người; sau này thánh Phao-lô cũng dùng động từ này với cách nói tương
tự: “Người được đưa lên trong vinh quang” (1 Tm 3,16). Thánh
Mác-cô cũng không cho biết sự kiện lên trời xảy ra ngay ngày
Phục Sinh hay trong thời gian bao lâu. Tin Mừng Gio-an cũng không đề cập đến việc
lên trời, nhưng ghi lại lời Chúa Giê-su Phục Sinh nói với bà Ma-ri-a Mác-đa-la:
“…đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha. Nhưng hãy đi
gặp anh em Thầy và bảo họ: ‘Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha
của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh
em’” (Ga 20,17). Điều này nói lên sự khác biệt trong cách thể hiện, giữa
vinh quang của Đức Ki-tô Phục Sinh và vinh quang của Đức Ki-tô được tôn vinh
bên hữu Chúa Cha. Biến cố Lên Trời vừa có tính lịch sử vừa có
tính siêu việt, đánh dấu sự chuyển tiếp từ vinh quang này đến vinh quang kia (Giáo
Lý Hội Thánh Công Giáo, số 660).
Riêng thánh Lu-ca, trong trình thuật Phục Sinh, đã dùng 2 động
từ khác nhau để diễn tả việc Chúa lên trời. Thứ nhất là lời Đức Giê-su nói với
hai môn đệ trên đường Em-mau: “Nào Đấng Ki-tô lại chẳng phải chịu
khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của
Người sao?” (Lc 24,26), trong câu này động từ εἰσελθεɩν (ei-sel-the-in)
nghĩa là “vào” hoặc “đi vào” ở thể chủ động,
lối vô định (infinitive); động từ thứ hai trong câu: “Và đang khi chúc lành
cho họ, Người rời khỏi họ và được đem lên trời” (Lc
24,51), ἀνεφέρετο (a-ne-phe-re-to) ở thể thụ động, lối trình bày
(indicative), thì vị hoàn (imperfect), hiểu là Chúa Giê-su được Chúa Cha tôn
vinh mãi mãi.
Còn trong sách Công vụ Tông Đồ, thánh Lu-ca lại dùng cùng một
động từ như trong Tin Mừng Mác-cô: ἀνελήμφθη (a-ne-lêm-ph(ơ)thê), ở thể
thụ động, nghĩa là Chúa Giê-su được đưa lên cao (Cv
1,2). Tuy nhiên, sách Công vụ Tông Đồ ghi lại một chi tiết mà không
tác giả nào khác nói đến, đó là sau khi Chúa Giê-su sống lại, thì trong
bốn mươi ngày, Người đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên
Chúa (x. Cv 1,3). Như đã nói ở trên, thân thể Chúa Giê-su đã được
vinh hiển ngay khi Người sống lại, tức là đã vào trong vinh quang Nước Trời, bởi
vì không thể tách biệt mầu nhiệm Phục Sinh và Thăng Thiên của Chúa Giê-su, nên
thời gian bốn mươi ngày chỉ mang tính biểu tượng cho thời gian
đầy đủ để các Tông Đồ lãnh hội được giáo huấn về Nước Thiên Chúa. Đó là ý nghĩa
của những lần Chúa Phục Sinh hiện ra để cùng ăn cùng uống với các ông (x. Cv
10,41). Thời gian này vinh quang của Chúa Ki-tô Phục Sinh vẫn còn được che giấu
dưới hình dáng những con người bình thường: một khách bộ hành (Mc 16,12 ;
Lc 24,15), một người làm vườn (Ga 20,14-15), một đồng nghiệp đánh cá (Ga
21,4-5). Lần hiện ra cuối cùng của Chúa Ki-tô Phục Sinh kết thúc bằng việc nhân
tính của Người tiến vào vinh quang Thiên Chúa một cách vĩnh viễn; vinh quang
này được tượng trưng bằng đám mây và cõi trời (Cv 1,9; Lc 24,51), nơi mà từ nay
Người ngự bên hữu Thiên Chúa, và Người lãnh nhận Thánh Thần từ Chúa Cha để
không ngừng tuôn đổ xuống cho Hội Thánh (Cv 2,33).
Tóm lại, qua những cách diễn tả khác nhau của từng tác giả
Tân Ước, biến cố Thăng Thiên là một mầu nhiệm vượt quá các khái niệm không
gian, thời gian và ngôn từ của con người, đưa chúng ta đến niềm xác tín rằng: “Quê
hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su
Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục
muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn
của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người.” (Pl 3,20-21).
Lời nguyện
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa đã chiến thắng tội lỗi và tử thần
bằng chính cái chết và sự phục sinh vinh hiển của Chúa
và hôm nay Chúa ngự lên cõi trời cao,
không phải để lìa xa chúng con là những kẻ yếu đuối,
nhưng vì Ngài là Đầu và là Thủ Lãnh của chúng con,
nên Ngài đã lên trước, để chúng con là những chi thể của
Ngài vững một niềm tin tưởng cũng sẽ được lên theo.
A-men.
Nguồn: tgpsaigon.net