VÌ SAO GIÁO HỘI TẠI VIỆT NAM CẦN XÂY DỰNG
NHỮNG CỘNG ĐOÀN KITÔ HỮU NHỎ?
(Small Christian Communities- SCCs)
Tạ Đình Vui
WHĐ (1.8.2020) -
Cấu trúc Giáo Hội địa phương theo các Cộng đoàn Kitô hữu nhỏ (CĐKN - Small Christian Community) như
ở nhiều nước châu Á là một nội dung còn rất xa lạ trong Giáo Hội tại Việt Nam,
vì lâu nay chúng ta không có nhiều liên lạc làm việc và cộng tác chặt chẽ với
Liên Hội đồng Giám mục Á châu (FABC).
Bài viết này cố gắng
trả lời 4 câu hỏi sau đây:
1. Tại sao cần
gây dựng những Cộng đoàn Kitô hữu nhỏ trong Giáo Hội tại Việt Nam?
2. Cộng đoàn Kitô
hữu nhỏ là gì?
3. Cộng đoàn Kitô
hữu nhỏ giúp ích gì cho Giáo Hội tại Việt Nam?
4. Kế hoạch này
có khả thi không?
1. BỐI CẢNH HIỆN NAY CỦA GIÁO HỘI TẠI VIỆT NAM
Chúng ta có cần
gây dựng những Cộng đoàn Kitô hữu nhỏ không?
Nhìn vào tình trạng
hiện nay của Giáo Hội tại Việt Nam, người ta không thể không chú ý đến một số
hiện tượng, sự kiện và tình trạng sau đây:
1.1 “TỶ LỆ DÂN SỐ CÔNG GIÁO VIỆT NAM TỪ 55 NĂM VỪA QUA
KHÔNG HỀ GIA TĂNG”
Trong Đại hội
Loan báo Tin Mừng lần III tại Huế tháng 9/2015, Đức giám mục Anphong Nguyễn Hữu
Long cho biết tình trạng này như sau:
“Trong 50 năm
qua, từ khi có sắc lệnh Ad Gentes, GHVN đã làm được gì? Việc lượng định này
không dễ. Chúng ta có thể thấy những kết quả qua các phúc trình thường niên của
HĐGMVN. Đồng thời, chúng ta cũng có thể nói rằng những kết quả đó chỉ là phần nổi
nhỏ bé của một băng sơn to lớn, nghĩa là có những điều chưa làm được, hoặc đáng
lẽ công cuộc LBTM tại Việt Nam phải có nhiều kết quả hơn.”
Cha Antôn Nguyễn
Ngọc Sơn, nhân kỷ niệm 50 năm thiết lập hàng Giáo phẩm tại Việt Nam
(1960-2010), đã viết bài “Nhìn lại sứ mạng
truyền giáo trong 50 năm qua”, trong đó ngài cho rằng hiệu quả truyền giáo
tại Việt Nam chưa cao. Nếu căn cứ vào các thống kê thường niên của HĐGMVN, con
số tín hữu Công giáo tại Việt Nam không gia tăng mà lại có chiều hướng thụt
lùi:
- Năm 1960, số giáo
hữu tại Việt Nam là 2.000.000 / 30.000.000 người, tỷ lệ 6,93%.
- Năm 2000, số
giáo dân là 5.200.000/77.000.000 người, tỷ lệ 6,70%.
- Năm 2008, con số
này là 6.100.000/86.100.000 người, tỷ lệ 7,18%.
- Năm 2014, tổng
số giáo dân là 6.606.495/95.247.775 người, tỷ lệ 6,93%
Kết quả là sau 55
năm (1960-2015), tỷ lệ dân số Công giáo tại Việt Nam bằng nhau 6,93% !
Số tín hữu gia nhập
đạo, tức chịu phép Rửa tội, cho thấy thường do hai cách: hoặc sinh ra từ gia
đình Công giáo; hoặc do kết hôn với người có đạo (chiếm 80-90% trong số người lớn
theo đạo). Như thế thì phải nói rằng việc loan báo Tin Mừng tại Việt Nam sau 50
năm không có kết quả là bao, nếu dựa vào các con số thống kê.
1.2 SỐ NGƯỜI THEO ĐẠO KHÔNG TƯƠNG XỨNG VỚI SỐ
NHÂN SỰ LO VIỆC TRUYỀN GIÁO
Năm 2014, số linh
mục cả nước là 4.635 (3.546 linh mục giáo phận và 1.089 linh mục dòng); số chủng
sinh là 2.357, số tiền chủng sinh là 2.389; số tu sĩ là 19.717 (2.834 nam tu,
16.883 nữ tu); số giáo lý viên cả nước là 59.448 người. Tổng số các nhân sự gắn
liền với việc truyền giáo là 88.546 người. Số người tân tòng gia nhập đạo năm
2014 là 41.395 người. So sánh hai con số 88.546 và 41.395, ta thấy cứ hai tín hữu
ưu tuyển chưa đem được một người vào đạo. Đó là chưa nói đến con số rất lớn các
hội viên hội đoàn Công giáo tiến hành trong cả nước.”(trích Bài thuyết trình tại Đại hội) Có thể nói là qua biến cố
1975, có nhiều người Công giáo Việt Nam đi ra nước ngoài hay dù còn ở trong nước,
nhưng vì hoàn cảnh khó khăn nên đã đi lập nghiệp vùng kinh tế mới xa xôi, không
còn sinh hoạt trong giáo xứ nữa. Dù sao hàng năm Giáo Hội cũng có thêm khoảng
40.000 tân tòng. Cũng có nhiều người đã được nghe Tin Mừng, song vì lý do này
khác, chưa có điều kiện gia nhập Kitô giáo. Tuy nhiên vấn đề vẫn còn nguyên. Thật
sự việc loan báo Tin Mừng trong thời gian qua “lẽ ra phải có kết quả hơn” (ĐGM Anphong, như trên). Tại sao như vậy?
1.3 GIÁO HỘI TẠI VIỆT NAM ĐÃ CÓ NHIỀU ĐƯỜNG
LỐI VÀ KẾ HOẠCH LOAN BÁO TIN MỪNG, NHƯNG HÀNG NGŨ GIÁO DÂN CHƯA MẠNH DẠN LOAN
BÁO TIN MỪNG CHO LƯƠNG DÂN
- Hàng giáo phẩm
Việt Nam được thánh giáo hoàng Gioan XXIII thiết lập vào năm 1960. Sau 55 năm,
Giáo Hội đã có một hàng giáo dân được đào tạo trưởng thành như mong muốn của
Công đồng Vatican 2 chưa?
Sắc lệnh Ad Gentes số 21 viết:”Nếu như hàng Giáo
dân chưa chính thức thành hình và chưa hoạt động bên cạnh hàng Giáo phẩm, lúc
đó Giáo Hội vẫn chưa thực sự được thiết lập, chưa sống trọn vẹn, cũng như chưa
trở nên dấu chỉ tuyệt hảo của Chúa Kitô giữa loài người. Thật vậy, Tin Mừng
không thể đi sâu vào tinh thần, đời sống và sinh hoạt của một dân tộc nếu không
có sự hiện diện linh hoạt của giáo dân. Vì thế, ngay khi gây dựng Giáo Hội, đã
phải chú tâm tối đa đến việc đào tạo các Kitô hữu giáo dân trưởng thành”. (Sắc lệnh Ad Gentes số 21, Bản dịch của Ủy
ban Giáo Lý Đức Tin, năm 2012).
Phải chăng vì
chưa có điều kiện đào tạo một hàng giáo dân “trưởng thành”?
- Hội đồng Giám mục
Việt Nam đã phổ biến nhiều văn kiện quan trọng, tác động không ít trên đời sống
Dân Chúa trong thời gian qua. Có thể kể:
a. Thư Chung 1980
“Sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc, để xây dựng hạnh phúc của đồng bào”.
b. Thư Chung năm
2001 “Để họ được sống và sống dồi dào”
c. Thư Chung hậu
Đại hội Dân Chúa 2010: ‘Cùng nhau bồi đắp nền văn minh tình thương và sự sống.”
d. Thư Chung
2013: “Hội thánh Công giáo tại Việt Nam và công cuộc Tân Phúc âm hóa”. Và tiếp
theo là Thư mục vụ 1.11.2014 về “Tân Phúc âm hóa đời sống các giáo xứ và cộng
đoàn sống đời thánh hiến”.
Các Thư Chung và
Thư Mục vụ này trình bày rất rõ ràng và cụ thể những việc cần làm và phận sự của
từng thành phần Dân Chúa. Tuy nhiên, hình như tầm nhìn và đường lối loan báo
Tin Mừng vẫn còn nằm trong bối cảnh và đường lối truyền thống xưa nay, chưa bứt
ra khỏi cái khung cũ và nhất là chưa “sáng tạo” một công cụ mới để thực hiện
mũi nhọn chiến lược, tập trung vào một Tầm Nhìn và Sứ Mạng có sức hiệp nhất mọi
thành phần Dân Chúa, gồm giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân trong một Kế hoạch chung,
theo đường dài với một chương trình đào tạo nhân sự thích ứng, chung cho toàn
Giáo Hội tại Việt Nam.
Các Ủy ban Mục vụ
trực thuộc HĐGMVN (gồm 17 Ủy ban) đã được thành lập đầy đủ và nay lại có thêm
Văn phòng HĐGMVN có thể làm việc chung như thế nào để cùng nhau xây dựng một
Giáo Hội trưởng thành.
1.4 BƯỚC VÀO CÔNG CUỘC LOAN BÁO TIN MỪNG "MỚI" TẠI VIỆT NAM
Môi Trường Sống
xã hội của đồng bào và Khung Cảnh Sống Đức Tin của các tín hữu tại Việt Nam hôm
nay đã chuyển biến sâu sắc, khác hẳn với trước đây. Đáp lời kêu gọi của Thượng
Hội đồng Giám mục lần thứ 12 và của các Giáo hoàng về Tân Phúc âm hóa và nhất
là của Đức Thánh Cha Phanxicô trong Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng về “Hoán cải Mục
Vụ toàn diện tập trung vào định hướng loan báo Tin Mừng” (NVTM số 25-33), phải
chăng đã đến lúc cần xác định một GIAI ĐOẠN MỚI trong công cuộc loan báo Tin Mừng
tại Việt Nam?
- Trong 400 năm
qua, việc loan báo Tin Mừng gần như được khoán cho các giáo sĩ và tu sĩ cũng
như các thầy giảng và giáo lý viên. Người giáo dân không cảm thấy mình có nghĩa
vụ trực tiếp tham gia vào sứ mạng này của Hội Thánh.
- Ngày nay, từ
sau Công đồng Vatican II đến nay, Hội Thánh không ngừng khẳng định, kêu gọi và
nhắc nhở “bản chất của Hội Thánh là được sai đi loan báo Tin Mừng” và tất cả mọi
thành phần trong Hội Thánh, do bí tích thánh tẩy và thêm sức, đều có chung
trách nhiệm làm chứng Chúa Kitô và công bố Tin Mừng cứu độ cho tất cả mọi dân
nước, ở khắp nơi (xem Mt 28,19-20; Mc 16.15; Luca 24, 47).
- Trong giai đoạn
mới này, Giáo Hội nêu rõ vai trò của Giáo dân và các Gia đình trong Công cuộc
Tân Phúc âm hóa. Họ không chỉ là đối tượng “được phúc âm hóa”, song còn phải là
những tác nhân chính và quan trọng nhất. Nếu dùng hình ảnh Giáo Hội là một GIA
ĐÌNH, thì nay đã tới giờ, các Giáo sĩ và Tu sĩ, tựa như những ANH CHỊ LỚN trong
nhà, cần ra sức giúp đỡ ĐÀN EM (giáo dân) chung sức lo việc Nhà Cha, mà ANH CẢ
GIÊSU đã nhận từ Chúa Cha và trao lại cho tất cả đàn em?
Tóm lại, phải
chăng đã đến lúc toàn thể Dân Chúa tại Việt Nam chung sức THI HÀNH SỨ MẠNG LOAN
BÁO TIN MỪNG CHO ĐỒNG BÀO DÂN VIỆT QUA MỘT CUNG CÁCH MỚI, TỎ BÀY MỘT KHUÔN MẶT
MỚI CỦA DÂN THIÊN CHÚA, GIÚP MỌI NGƯỜI NHẬN ĐƯỢC TÌNH THƯƠNG CỨU ĐỘ CỦA THIÊN
CHÚA CHA, ĐẤNG ĐÃ MUỐN CANH TÂN THẾ GIỚI NHỜ THÁNH THẦN CỦA CHÚA PHỤC SINH.
Muốn như thế,
chúng ta có thể nhìn xem các Giáo Hội anh em, tại châu Á, có kinh nghiệm gì
trong sứ vụ này.
2. CỘNG ĐOÀN KITÔ HỮU NHỎ (SMALL CHRISTIAN
COMMUNITIES) LÀ GÌ? ĐỂ LÀM GÌ?
Cộng đoàn Kitô hữu
nhỏ không phải là điều mới lạ hay riêng tư đối với Giáo Hội tại châu Á, nhưng
đã là một thực tại sống động có mặt từ lâu ở châu Mỹ Latinh, trước hết từ
Brasilia (1960), châu Phi (1960), châu Âu (1960-1970), Bắc Mỹ (1978) và châu Á
(Ấn Độ 1980 - Philippines 1993).
Trong Hội Thánh
toàn cầu, chân phước giáo hoàng Phaolô VI đã nói đến CĐKN trong Tông huấn Evangelium Nuntiandi (Loan báo Tin Mừng)
số 58, thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II mô tả và khuyến khích các giáo xứ phát
triển các cộng đoàn nhỏ trong Tông huấn Redemptoris
Missio (số 51), Tông huấn Christifideles
laici Kitô hữu Giáo dân (số 26) và Tông huấn Giáo Hội tại châu Á.
Điều đặc biệt ở
châu Á,CĐKN là sự chọn lựa của Liên Hội đồng Giám mục Á châu cho Giáo Hội tại
châu Á.
2.1 MỘT CHỌN LỰA CỦA LIÊN HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC Á
CHÂU, BANDUNG 1990
Tại Hội nghị
Khoáng đại lần thứ 5 ở Bandung, Indonesia năm 1990, Liên Hội đồng Giám mục Á
châu đã ra một tuyên ngôn, mang tựa đề: “Journeying together towards the Third
Millennium” (Cùng nhau hành trình hướng về thiên niên kỷ thứ ba), chính thức chọn
lựa ưu tiên của mình, liên quan đến Cộng đoàn Kitô hữu nhỏ. Tuyên ngôn có đoạn
như sau:
a. “Giáo Hội tại
châu Á phải là sự hiệp thông của những cộng đoàn, nơi đó giáo dân, tu sĩ và
giáo sĩ nhìn nhận và đón nhận nhau như anh chị em. Họ được kêu gọi đến với nhau
bởi Lời Thiên Chúa, là Lời, được xem như một sự hiện diện tựa như bí tích của
Chúa Phục Sinh, dẫn đưa họ đến việc hình thành những Cộng đoàn Kitô hữu nhỏ
(e.g. những nhóm láng giềng, Cộng đoàn Giáo Hội Cơ bản và cộng đoàn “giao ước”).
Ở đó, họ cầu nguyện và cùng nhau chia sẻ Tin Mừng của Chúa Giêsu, sống Lời ấy
trong cuộc sống mỗi ngày khi nâng đỡ lẫn nhau và làm việc với nhau, hiệp nhất
vì họ “một lòng một trí”.
b. Đây là một Giáo
Hội tham gia, nơi các hồng ân Chúa Thánh Thần ban cho toàn thể các tín hữu-giáo
dân, tu sĩ cũng như giáo sĩ-được nhìn nhận và kích hoạt, nhờ đó Giáo Hội có thể
được xây dựng và thực hiện sứ mạng của mình.
c. Được xây dựng
trong trái tim của dân chúng, đây là một Giáo Hội trung thành và yêu thương làm
chứng Chúa Giêsu Phục sinh và tiếp cận tới những người thuộc các niềm tin và
xác tín khác, nhằm thực hiện một cuộc đối thoại qua đời sống hướng đến sự giải
thoát toàn diện của mọi người.
d. Đây là một chất
men biến đổi trong thế giới, phục vụ như một dấu chỉ mang tính ngôn sứ, dám vượt
trên thế giới này, chỉ lên Vương quốc siêu vời sẽ đến viên mãn trong tương
lai.” (Tuyên ngôn của Hội nghị toàn thể lần
5 Bandung số 8.1.1 đến 8.1.4).
Như vậy, sách lược
CĐKN được gởi đến cho toàn thể các Giáo Hội tại châu Á như một ưu tiên, để xây
dựng một cách thế hiện diện mới của Giáo Hội.
2.2 NHỮNG NÉT ĐẶC TRƯNG CỦA MỘT CỘNG ĐOÀN
NHỎ (HAY CỘNG
ĐOÀN GIÁO HỘI CƠ BẢN)
Dung mạo của Cộng
đoàn Kitô hữu nhỏ, cũng còn gọi là Cộng đoàn Giáo Hội cơ bản (Basic Ecclesial
Communities- BEC) có thể được mô tả qua 5 nét đặc trưng sau đây:
a. Là một
nhóm nhỏ, trong đó các thành viên gần gũi, quen thân nhau, có thể chia
sẻ và làm việc với nhau cách chân tình. Họ biết mình thuộc về một nhóm, tin tưởng
lẫn nhau và sống thật sự với nhau. Thường thì số người trong nhóm uyển chuyển từ
5 đến 20 người hay gia đình.
b. Sống
gần nhau, chung một vùng dân cư. Họ có thể hội họp tại nhà của nhau,
hàng tuần, hai tuần hay hàng tháng. Ở đây người ta lưu ý đến địa bàn dân cư và
tình làng nghĩa xóm, nhấn mạnh đến tương quan và môi trường sống kề cận của các
thành viên.
c. Quy tụ
nhau quanh Chúa Kitô Phục sinh và Lời Tin Mừng. Đây là nền tảng của CĐKN. Họ đến với nhau là để
gặp Chúa Giêsu hiện diện trong cộng đoàn và đón nhận sự sống mới mà Ngài mang đến
qua Lời. Họ mở lòng trí ra cho Tin Mừng của Chúa Giêsu và khi chia sẻ Tin Mừng
với nhau, họ lớn lên trong niềm tin và nhờ thực hành Lời Chúa, họ có thể “ trở
nên Mẹ Thầy và anh chị em của Thầy” ( Lc 8,21) và của nhau. Tuy nhiên họ không
dừng lại ở đây, mà còn cùng dâng Thánh Lễ, là dấu chỉ cao quí nhất của sự hiện
diện của Chúa Kitô giữa cộng đoàn.
d. Sống niềm
tin của mình qua yêu thương và phục vụ. Họ đi theo Chúa Kitô nên cũng hành động giống Chúa Kitô là Đấng
“không đến cho người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ” hết mọi người, nhất là những
người nghèo khổ và bị bỏ rơi. Bằng cách đó, họ loan báo triều đại Thiên Chúa và
cùng Thánh Thần Ngài xây dựng vương quốc Chúa Kitô qua việc vun xây các giá trị
Tin Mừng trong cuộc sống xã hội. Như vậy, họ biến cầu nguyện thành hành động,
lòng tin thành việc làm, yêu thương thành phục vụ.
e. Luôn gắn bó với Giáo Hội phổ quát và Giáo Hội địa phương. CĐKN không sống biệt lập, nhưng bảo vệ sự hiệp thông và hiệp nhất với Giám mục, linh mục, giáo xứ của mình, như các chi thể của Giáo Hội, là Thân Mình Chúa Kitô . Việc cùng nhau cử hành thánh lễ, đón nhận các chương trình huấn luyện và đào tạo chung, tham gia vào Hội đồng Giáo xứ là những phương thế bảo đảm mối giây hiệp thông này.
CĐKN, do đó,
không phải là những đoàn thể hay hiệp hội tông đồ giáo dân cũng không phải là
những nhóm cầu nguyện, nhưng thật sự muốn là những “Giáo Hội nhỏ”, nơi mọi người
có thể nhận ra bản chất và sứ mạng của Giáo Hội Chúa Kitô, nhập cuộc vào xã hội
địa phương.
Các Cộng đoàn
Kitô hữu nhỏ nỗ lực làm cho Giáo Hội thật sự hiện diện và nhập thể vào nơi mình
sống, khi:
- chung sống với
nhau tại một nơi để hiệp nhất nên MỘT
- nhờ chia sẻ Lời Chúa và đem ra thi hành mà trở nên THÁNH THIỆN
- hành động theo
niềm tin, làm muối, men theo gương các TÔNG ĐỒ
- hiệp thông với
toàn thể Hội Thánh CÔNG GIÁO.
2.3 AsIPA, MỘT CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO NHẰM THÚC ĐẨY
VIỆC XÂY DỰNG “CÁCH HIỆN DIỆN MỚI CỦA GIÁO HỘI”
Để CĐKN là ưu
tiên mục vụ của Giáo Hội tại châu Á có thể trở thành sự thật, Ủy ban Giáo dân
trực thuộc LHĐGMAC đã được thành lập. Và một cuộc họp mặt tham khảo được tổ chức
tại Malaysia, vào năm 1993, do hai Ủy ban Phát triển Con người và Giáo dân phối
hợp. Kết quả là sự hình thành một phương pháp mục vụ mang tên AsIPA (Asian
Integral Pastoral Approach - Tiếp cận Mục vụ Toàn diện theo cung cách Á châu).
Từ nay các tài liệu huấn luyện được soạn thảo theo định hướng sau đây:
- TIẾP CẬN: chủ
trương tiếp cận “tập trung vào Chúa Kitô và Cộng đoàn”. Những người tham gia
các chương trình này sẽ tích cực làm công việc tìm kiếm cho chính mình, và được
giúp đỡ để tự mình trải nghiệm “cách hiện diện mới của Giáo Hội”.
- MỤC VỤ: tập
trung vào việc đào luyện giáo dân thi hành sứ mạng mục vụ trong Giáo Hội và Xã
hội.
- TOÀN DIỆN: tài
liệu quan tâm thể hiện sự cân bằng giữa các yếu tố “thiêng liêng” và “xã hội”,
cá nhân và cộng đoàn, giữa việc lãnh đạo của phẩm trật và trách nhiệm của giáo
dân.
- Á CHÂU: nhắm đến
việc thực thi lối nhìn của các Giám mục Á châu và trợ giúp các Kitô hữu đối diện
với cuộc sống tại châu Á trong ánh sáng Tin Mừng.
Phương pháp AsIPA
được phổ biến rất nhanh tại châu Á và đã có mặt tại 17 quốc gia vào năm 2011.
Giáo Hội tại Ấn Độ có DIIPA: Developing Indian Integral Pastoral Approach. Giáo
Hội tại Malaysia có MAsIPA: Malaysian Integral Pastoral Approach. Hy vọng rồi
đây cũng sẽ có VIPA: Vietnamese Integral Pastoral Approach.
3. ĐIỀU GÌ THÚC ĐẨY CHÚNG TA XÂY DỰNG CĐKN, HAY
NHỮNG HOA TRÁI ĐÁNG MONG ĐỢI
CĐKN là một công
cụ thích ứng cho việc xây dựng một Giáo Hội Mầu nhiệm - Hiệp thông - Sứ vụ tại
Việt Nam.
- Kinh nghiệm và
kết quả gặt hái được tại các Giáo Hội Á châu khi đón nhận các CĐKN như là một
ưu tiên để xây dựng một cách hiện diện mới, cho thấy đây là một công cụ mục vụ
rất hữu ích và hiệu nghiệm.
Tại Ấn Độ, năm
2012, trong hơn 160 giáo phận đã có 137 giáo phận xây dựng CĐKN, ở 4.561 giáo xứ
trên tổng số 6.082 giáo xứ, và 68.103 cộng đoàn[1].
- Cộng đoàn Giáo
Hội đầu tiên ở Giêrusalem (xem Cv
2,35-47; 4,32-34) là mô hình mẫu của các CĐKN. Thánh Luca cho thấy các hoạt động
phong phú của cộng đoàn với 5 sinh hoạt chính là: Giảng dạy (Didascalia), Hiệp thông (Koinonia), Phụng vụ (Leitourgia), Phục vụ (Diakonia) và Làm chứng (Marturia) đã thể hiện đầy đủ các yếu tố
Mầu nhiệm-Hiệp thông-Sứ vụ của Giáo Hội.
- CĐKN sẽ là một
công cụ sắc bén và năng động, có thể góp phần làm cho Giáo Hội tại Việt Nam được
là mình và thể hiện mình một cách mới mẻ, mạnh mẽ và mau chóng. Thật vậy, trong
quá khứ, chúng ta chưa có những điều kiện như hiện nay. Các giáo huấn của HĐGM
Việt Nam được truyền tải trong một bầu da mới, chắc chắn sẽ sinh nhiều hoa
trái.
Nếu quyết tâm tập
trung vào Chúa Giêsu và Cộng đoàn, để cùng nhau thực hiện Sứ mạng xây dựng
Vương quốc của Thiên Chúa, trong Chúa Thánh Thần, trên quê hương, chúng ta có
thể mong đợi những hoa trái sau đây:
Cộng đoàn Kitô hữu
nhỏ sẽ là tác nhân:
1. Chuyển Giáo Hội
họp tại nhà thờ tiếp tục hiện diện ở các vùng biên, trong các nhà riêng, như thời
Giáo Hội của 3 thế kỷ đầu, khi chưa có nhà thờ hay ở những nơi còn bách hại tôn
giáo (x. Cv 2,42-47). Giáo Hội Chúa
Kitô sẽ có mặt ở mọi nơi có người Kitô hữu sống (xem Mt 28,19-20; Mc
16,15-21);
2. Quy tụ các
nhóm giáo dân và gia đình họp nhau quanh Chúa Phục sinh và Lời của Ngài, để cầu
nguyện trong Thần khí và Sự thật (x.Ga
4,23), làm cho Chúa Giêsu hiện diện và cắm lều tại nơi mình ở (x.Mt 18,19-20; Ga 1,14), từng bước hình thành một cộng đoàn huynh đệ, “một lòng một
trí” (Cv 2,46);
3. Giúp mọi thành
phần Dân Chúa: giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân hiệp thông và hợp tác với nhau, theo
các đoàn sủng Thánh Thần ban cho mỗi người, cùng nhau xây dựng Thân Mình Chúa Kitô
đến mức trưởng thành (x.Ep 4,1-16) và
thực hiện Kế hoạch Cứu độ muôn dân trong Chúa Kitô (x.Ep 1,10);
4. Thực hiện một
cuộc đổi đời cho 3 thành phần xưa nay chưa được coi trọng, đó là: người nghèo,
giáo dân và phụ nữ.
- xây dựng một
Giáo Hội của người nghèo, chớ không chỉ cho họ;
- tạo điều kiện
cho người giáo dân sống ơn gọi và phẩm giá con Thiên Chúa, cùng với linh mục và
tu sĩ. Từ nay họ sẽ không còn mặc cảm, vì được đối xử như những người đồng phẩm
giá, hân hoan tìm thấy chỗ đứng và vai trò của mình trong Dân Chúa, tích cực
thi hành 3 chức năng ngôn sứ, tư tế và vương giả Chúa Kitô ban cho trong bậc sống
giáo dân;
- người phụ nữ sẽ
không còn bị xem là phụ thuộc, nhưng là phụ tá với thiên chức riêng của mình
trong cộng đoàn Giáo Hội (x. Thư gởi phụ
nữ của thánh giáo hoàng Gioan-Phaolô II);
5. Tích cực tham
gia vào công cuộc Tân Phúc âm hóa, nhất là thực thi lòng thương xót của Vị Mục
tử nhân lành, Đấng luôn chạnh lòng thương trước mọi con người nghèo khó và khổ
đau. Người hằng giảng dạy đám đông dân chúng (Mt 9,35-38), chữa lành mọi bệnh tật, trừ quỷ (Mc 1, 32-34) và nuôi sống đám đông (Mc 6, 34-44).
6. Hiện diện, hòa
mình và hợp tác với mọi người tại nơi mình sống trong yêu thương và phục vụ con
người và sự sống của mọi người, xây dựng một nền văn minh tình thương và sự sống,
bảo vệ thiên nhiên và môi trường sống cũng như tham gia vào cuộc đối thoại với
người nghèo, với các tôn giáo và văn hóa.
7. Góp phần phát
huy một đường lối lãnh đạo mới của người giáo dân: linh hoạt, thổi hứng và
khiêm tốn dẫn đường, theo gương Thầy Giêsu (x.Ga
13,1-15; Mc 10,41-45).
Kế hoạch thật đẹp,
lý tưởng song có khả thi chăng? Chúng ta cần thực tế, thấy rõ những thách đố và
khó khăn, nhưng cũng cần can đảm bắt tay vào việc, khi xác tín rằng đây là điều
Thiên Chúa muốn và truyền dạy. Những thách đố chúng ta phải đối diện không phải
ít và nhỏ.Có thể kể ra một số như sau:
4.1. THÁCH ĐỐ TRONG VIỆC XÂY DỰNG TÌNH HIỆP THÔNG
TRONG CỘNG ĐOÀN
Sự hiệp thông
trong cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, mẫu gương của CĐKN, là một sự hiệp thông
toàn diện: một lòng một trí (Cv
4,32); hiệp thông trong niềm tin (Cv
2,42); hiệp thông trong bẻ bánh (Cv
2,42) và hiệp thông trong chia sẻ mọi sự cho nhau, để không ai phải thiếu thốn
(Cv 2,46; 4,34). Sự chia sẻ này còn mở
rộng ra cho các cộng đoàn khác nữa.
Để có được một sự
hiệp thông như thế,
- Trước hết cần
thực hiện những công việc / hoạt động thường xuyên như: họp nhau không những
chia sẻ Lời Chúa, suy nghĩ về những hoàn cảnh sống cá nhân và cộng đoàn dưới
ánh sáng đức tin, cử hành thánh lễ và các việc đạo đức bình dân, những khóa học
hỏi và huấn luyện về nhiều lãnh vực thánh kinh, giáo lý, mà còn về kinh tế, xã
hội, văn hóa...
- Tiếp theo, cần
xây dựng những cấu trúc: tổ chức các
Nhóm cộng đoàn, các Nhóm lãnh đạo-linh hoạt viên, những cuộc họp mặt đào tạo, hợp
tác, lên kế hoạch ở nhiều cấp khác nhau. Điều quan trọng hơn cả chính là tinh
thần và mục đích soi dẫn những con người hoạt động với nhau. Để xây dựng CĐKN,
người ta cần đến 4 trục: tham gia, đồng trách nhiệm, đối thoại và thông đạt.
- Yếu tố thứ ba
giúp xây dựng sự hiệp thông đó là cung cách lãnh đạo cộng đồng, khác với
cung cách truyền thống xưa nay, nhấn mạnh đến việc lôi cuốn sự tham gia, đóng
góp khả năng, ân huệ của mọi người nhằm phục vụ lợi ích chung. Các kỹ năng cần
thiết là: tham khảo, đối thoại, lắng nghe, truyền đạt, phân định và quyết định
chung. Và chính cộng đoàn đóng góp vào đời sống cũng sẽ góp phần tuyển chọn và
đào luyện những người lãnh đạo/dẫn đường của mình.[2]
4.2 NỐI KẾT HIỆP THÔNG VỚI SỨ VỤ
Một cám dỗ thường
xảy ra trong những thời gian đầu là CĐKN quá hướng nội (lo cho thành viên của
mình) mà xem nhẹ sứ vụ loan báo Tin Mừng. Trong CĐKN, hai yếu tố hiệp thông và
sứ vụ cần song hành với nhau: Hiệp thông để lo Sứ vụ, Sứ vụ tăng cường Hiệp
thông.
Theo lối nhìn của
Giáo Hội tại châu Á, cần quan tâm đến 3 mặt của sứ vụ dẫn lối cho mọi người
nhìn thấy khuôn mặt của Chúa Kitô nơi mình. Đó là:
a. Công việc loan
báo Tin Mừng cứu độ phải giúp con người tiếp cận các giá trị Tin Mừng và nâng
cao môi trường sống của con người, sao cho họ được hạnh phúc hơn, nhờ được bình
an, tự do và niềm vui.
b. Sứ vụ của CĐKN
phải đưa mình hội nhập văn hóa địa phương nhiều hơn, nối kết niềm tin với cuộc
sống, giúp thành viên nhìn vào tình trạng địa bàn dân cư, các hoàn cảnh, biến cố
và vấn đề dưới ánh sáng của Tin Mừng và đức tin, để tìm ra giải pháp tháo gỡ.
c. Trong bối cảnh
có nhiều tôn giáo và niềm tin khác nhau ở châu Á, loan báo Tin Mừng sẽ đưa các
Kitô hữu đi tìm gặp gỡ, chia sẻ và trao đổi với những anh chị em ngoài Kitô
giáo, với ước muốn làm cho cuộc sống chung hòa hợp, tươi vui và hợp tác chăm
sóc những thành phần khốn khổ.
4.3 HOÁN CẢI VÀ CANH TÂN MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA CÁC
THÀNH PHẦN DÂN CHÚA, ĐỂ TRỞ THÀNH ĐỐI TÁC CỦA NHAU
Có người đã ví hàng ngũ giáo dân xưa nay như “một con voi đang ngủ”,
khá thụ động trong cuộc sống Giáo Hội. Lối nhìn về một Hội Thánh hiệp thông,
trong đó mọi người là con một Cha, anh chị em một nhà (x. Mt 23,8-11;Ep 4,1-5), sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc đổi
thay tình trạng này.
- Thực tế cho thấy
có một khoảng cách khá xa giữa lối nhìn Hội Thánh-Dân Thiên Chúa và cách thể hiện
sự hiệp thông, đối thoại, chia sẻ và cùng mang trách nhiệm giữa các thành phần
Dân Chúa. Cần thay đổi não trạng và những thái độ kỳ thị cách biệt để mọi người
trở thành những đối tác huynh đệ, một lòng, một ý cho sứ vụ xây dựng Nước Chúa.
- CĐKN mời gọi
“hoán cải về những thiếu sót và lỗi lầm” trong quá khứ để có thể canh tân con
người và cuộc sống trong Giáo Hội.
- Các tác nhân
canh tân là hàng giáo sĩ, kế đến là giáo dân và tu sĩ. Theo Đức tổng giám mục
Orlando Quevedo, OMI, bước đầu tiên hướng tới một cách hiện diện mới của Giáo Hội
là (1) canh tân hàng giáo sĩ; (2) phát triển một lớp giáo dân làm tác viên mục
vụ; (3) định hướng lại các chương trình huấn luyện linh mục, tu sĩ, đoàn thể
giáo dân.
Nếu Giáo Hội tại
Việt Nam có kế hoạch chung, dám đầu tư nhân sự, kiên trì đào tạo...
Giáo Hội tại Việt
Nam đã mạnh dạn lên kế hoạch xây dựng Trung tâm hành hương quốc gia La Vang và
tiến hành công trình từ vài năm nay và sẽ kéo dài nhiều năm.
Hy vọng HĐGMVN
cũng tiếp tục lên một kế hoạch mới với mục đích “Xây dựng một cách hiện diện mới
của Giáo Hội tại Việt Nam”.
Kế hoạch này chắc
chắn sẽ là góp phần hữu hiệu để thực hiện mục đích các Thư Chung:
- “Sống Phúc âm
giữa lòng dân tộc, để xây dựng hạnh phúc của đồng bào” (1980).
- “Để họ được sống
và sống dồi dào” (2001)
- “Cùng nhau bồi
đắp nền văn minh tình thương và sự sống.” (2010).
Và đồng thời, Giáo Hội tại Việt Nam cũng có thể làm chứng cho đồng bào thấy rằng, người Việt Nam có thể đoàn kết với nhau để xây dựng hạnh phúc của đồng bào, vì họ là Kitô hữu.
Viết theo các tài liệu sau đây:
1. Colloquium on
Church in Asia in the 21st Century, Office for Human Development - FABC Manila,
Philippines 1997.
2. Breaking
Ground - Papers presented at the International Theological Congress SCCs at PAC
Nagpur, August 17th-19th, 2011. Ấn bản đầu tiên năm 2014.
3. “Cộng đoàn
Giáo Hội cơ bản và việc chăm sóc mục vụ cho người lao động nhập cư.” Linh mục
Phêrô Nguyễn Văn Khảm.
Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGM VN, số 91 (tháng 11 & 12 năm 2015)