Sách Giáo lý Năm Giới trẻ 2020 của Giáo phận Hải Phòng
Để bạn trẻ thay đổi bản thân, Ban Mục vụ Giới trẻ của Giáo phận Hải
Phòng đã soạn thảo chương trình dạy giáo lý với 12 đề tài cho 12 tháng của năm
2020. Dựa trên hai tài liệu chính thức được Giáo Hội công bố: YOUCAT và DOCAT,
chương trình Giáo lý nhằm giúp các bạn trẻ hiểu Đạo và sống Đạo trong bối cảnh
cụ thể của xã hội Việt Nam. Hy vọng những kiến thức này sẽ giúp các bạn trẻ
trưởng thành trong đức tin và trong đời sống, tiến tới sự trưởng thành toàn
diện như Hội đồng Giám mục Việt Nam mong muốn.
---o0o---
SÁCH GIÁO LÝ NĂM GIỚI TRẺ 2020
HƯỚNG TỚI SỰ TRƯỞNG THÀNH TOÀN DIỆN
(Biên
soạn theo cuốn YOUCAT và DOCAT)
Khẩu hiệu: “Người
trẻ thay đổi bản thân, thay đổi thế giới”
Giáo phận Hải Phòng 2020
---o0o---
12 BÀI GIÁO LÝ NĂM GIỚI TRẺ 2020
Bài 1: Người trẻ
trưởng thành Đức tin
Bài 2: Người trẻ
trưởng thành Phẩm giá
Bài 3: Người trẻ
trưởng thành về Tình yêu và Tính dục
Bài 4: Người trẻ
trưởng thành về Hôn nhân
Bài 5: Người trẻ
trưởng thành Tự do và Lương tâm
Bài 6: Người trẻ
trưởng thành về Sự thật
Bài 7: Người trẻ
tham dự vào Kế hoạch Yêu thương của Thiên Chúa
Bài 8: Người trẻ
dấn thân xây dựng Công ích và Liên đới
Bài 9: Người trẻ
hoạt động nâng cao Phẩm giá con người
Bài 10: Người trẻ
dấn thân xây dựng Tự do, Công bằng và Dân chủ
Bài 11: Người trẻ
trưởng thành Lao động và Nghề nghiệp
Bài 12: Người trẻ chung tay xây dựng Hòa bình
---o0o---
PHỤ LỤC
I. NGÀY GIỚI TRẺ GIÁO HẠT
(Chúa nhật đầu tháng)
1. Giáo hạt Kẻ Sặt:
Tháng 02/2020
2. Giáo hạt Nam Am:
Tháng 03/2020
3. Giáo hạt Mạo
Khê: Tháng 5/2020
4. Giáo hạt Hải
Dương: Tháng 7/2020
5. Giáo hạt Hòn
Gai: Tháng 9/2020
6. Giáo hạt Chính
Tòa: Tháng 11/2020
II. NGÀY GIỚI TRẺ GIÁO PHẬN: CHÚA NHẬT TRƯỚC LỄ LÁ
(29/03)
III. 6 ĐỀ TÀI HỌC HỎI TRONG NĂM GIỚI TRẺ
(Dành cho 6 Giáo hạt)
Đề tài 1: Thế nào
là trưởng thành toàn diện?
Đề tài 2: Sự trưởng
thành Nhân bản và Đức tin
Đề tài 3: Người trẻ
với Kỹ năng sống
Đề tài 4: Trưởng
thành về Tình yêu và Tính dục
Đề tài: 5: Người
trẻ và sự nghiệp
Đề tài 6: Loan báo Tin mừng trong thời kỹ thuật số
Tải bản PDF: Sách Giáo lý Năm Giới trẻ 2020
---o0o---
LỜI GIỚI THIỆU
Giới trẻ là mối
quan tâm đặc biệt của Giáo Hội. Thượng Hội đồng Giám mục lần thứ 15 với đề
tài “Người trẻ, đức tin, và sự phân định ơn gọi” được tổ chức
tại Rôma vào tháng 10-2018 đã nói lên mối quan tâm ấy.
Hưởng ứng lời mời
gọi của Đức Thánh Cha, Hội đồng Giám mục Việt Nam đã đề nghị năm 2020 là
năm “đồng hành với người trẻ hướng tới sự trưởng thành toàn diện”. Như
Chúa Giêsu phục sinh đồng hành với hai môn đệ trên đường đi Emmaus, Giáo Hội
muốn đồng hành với người trẻ để đem cho họ niềm hy vọng và sự bình an trong một
thế giới đầy cạm bẫy và chịu ảnh hưởng nghiêm trọng bởi lối sống duy vật chất.
Không những chỉ
nhằm đưa ra những giáo huấn, các vị Chủ chăn của Giáo Hội Công giáo tại Việt
Nam còn khuyến khích mời gọi người trẻ tham gia nhiệt thành vào việc dựng xây
Giáo Hội và loan báo Tin Mừng. Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói trong bài giảng
khai mạc Thượng Hội đồng: “Những người trẻ
sẽ có khả năng ngôn sứ và tầm nhìn nếu chúng ta, những người lớn, biết mơ ước
và thông truyền những ước mơ và niềm hy vọng mà chúng ta hằng ấp ủ”.
Trong niềm hiệp
thông với Giáo Hội, vì lòng yêu mến đối với các bạn trẻ, Giáo phận Hải Phòng tổ
chức Năm Giới trẻ 2020 với chủ đề: “Người trẻ thay đổi bản thân, thay đổi thế
giới”. Quả vậy, nếu mỗi
bạn trẻ thay đổi bản thân, thì sẽ góp phần thay đổi đời sống và môi trường xung
quanh. Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói: “Nếu
bạn tiết kiệm chút điện nước hay nhặt một cọng rác để làm sạch môi trường,
trong thực tế, xã hội không thay đổi được bao nhiêu, nhưng điều quan trọng là
chính con người của bạn được thay đổi”.
Để bạn trẻ thay đổi
bản thân, Ban Mục vụ Giới trẻ của Giáo phận đã soạn thảo chương trình dạy giáo
lý với 12 đề tài cho 12 tháng của năm 2020. Dựa trên hai tài liệu chính thức
được Giáo Hội công bố: YOUCAT và DOCAT, chương trình Giáo lý nhằm giúp các bạn
trẻ hiểu Đạo và sống Đạo trong bối cảnh cụ thể của
xã hội Việt Nam. Hy vọng những kiến thức này sẽ giúp các bạn trẻ trưởng thành
trong đức tin và trong đời sống, tiến tới sự trưởng thành toàn diện như Hội
đồng Giám mục Việt Nam mong muốn.
Tôi hân hạnh giới
thiệu chương trình Giáo lý Năm Giới
trẻ với các Cha và mọi thành phần Dân Chúa trong Giáo phận, đặc biệt
là các bạn trẻ. Xin các Cha nhiệt thành hưởng ứng chương trình Mục vụ chung của
Giáo phận, giúp các bạn trẻ gặp gỡ Chúa Giêsu và trở nên môn đệ của Người.
Hải Phòng, ngày 20 tháng 12 năm 2019
+Giuse Vũ Văn Thiên
Tổng Giám mục Hà Nội
Giám quản Tông tòa Hải Phòng
---o0o---
KINH NGUYỆN GIỚI TRẺ
CHÚA Ở LẠI VỚI CHÚNG CON
(dựa trên Lc
24,13-35 và Christus Vivit 237)
Lạy Chúa Giê-su
Ki-tô,/ là Thầy và là Bạn của giới trẻ chúng con,/ Chúa đã xuống thế làm
người,/ chịu đau khổ, chịu chết vì chúng con./ Sau khi sống lại,/ Chúa đã
đồng hành với hai môn đệ trên đường Em-mau/ và soi trí mở lòng cho họ hiểu biết
Lời Chúa./ Chúa đã Bẻ Bánh cho họ tham dự sự sống của Chúa/ và làm cho mắt họ
sáng ra để họ nhận biết Chúa./ Nhờ ơn Chúa giúp,/ họ trở thành những chứng nhân
trung tín của Chúa cho mọi người.
Chúng con cảm tạ
Chúa,/ vì Chúa ở lại với chúng con cho đến tận thế./ Xin cho chúng con ngày
càng hiểu biết/ và yêu mến Lời Chúa hơn,/ để Lời Chúa luôn là 'ngọn đèn soi cho con bước,/ là ánh sáng chỉ
đường con đi'./ Xin cho chúng con siêng năng đến với Bí Tích Thánh Thể,/ để
chúng con được tham dự sự sống đời đời của Chúa/ ngay trong hành trình trần thế
này./ Xin cho chúng con hăng say loan báo Tin Mừng Bình An của Chúa/ trong môi
trường sống của chúng con.
Xin cho chúng con luôn
cảm nghiệm được lòng Chúa xót thương/ và dấn thân giữa dòng đời bằng tình yêu
và hành động. Xin cho chúng con biết đi theo Con Đường Trái Tim
Chúa/ để đến với mọi người,/ nhất là những người nghèo khổ/
và thiếu vắng tình thương./ Xin cho chúng con biết yêu mến
muôn vật muôn loài Chúa đã dựng nên/ và cộng tác với Chúa trong công trình sáng
tạo.
Lạy Chúa Giê-su
Ki-tô, là Thầy và là Bạn của giới trẻ chúng con,/ xin cho chúng con luôn là
những môn đệ và tông đồ trung tín của Chúa trong hành trình trấn thế này,/ cho
đến ngày được ở cùng Chúa Trên Quê Trời. Amen.
---o0o---
BÀI 1
NGƯỜI TRẺ TRƯỞNG THÀNH ĐỨC TIN
“Lòng tin của con đã cứu chữa con” (Mt 9,22)
1. Đức tin là gì?
Đâu là những đặc tính của Đức Tin?
Đức tin là nhận
biết và trông cậy, nó có 7 đặc tính sau:
1) Đức tin là ơn
tặng tuyệt vời của Chúa, ta nhận được đức tin khi ta sốt sắng cầu xin.
2) Đức tin là sức
mạnh siêu nhiên, tuyệt đối cần thiết để ta đạt được phần rỗi.
3) Đức tin đòi ý
muốn tự do và sự hiểu biết rõ ràng của người ta, khi họ đón nhận lời mời của
Chúa.
4) Đức tin là sự
chắc chắn tuyệt đối, vì chính Chúa Giêsu bảo đảm như thế.
5) Đức tin không
đầy đủ, trừ khi nó dẫn đến Tình yêu tỏ ra bằng hành động.
6) Đức tin lớn dần
khi người ta nghe thêm, nghe thêm cách ý tứ Lời của Chúa và đáp lại lời Người
khi họ cầu nguyện.
7) Đức tin cho ta,
ngay cả ở đời này, niềm vui thấy trước nơi Thiên đàng sau này.
2.Tại sao chúng ta
tin chỉ có Một Chúa?
- Chúng ta tin chỉ
có Một Chúa, vì theo chứng cớ Kinh Thánh, chỉ có một Chúa, và theo luật lý luận
chỉ có thể có Một Chúa.
(Mc 12,29 Chúa Giêsu trả lời, "Điều răn đứng đầu
là, Nghe đây, hỡi Ítraen, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. 12,30 Ngươi
phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí
khôn và hết sức lực ngươi).
3. Bạn sẽ làm gì
khi bạn đã nhận biết Thiên Chúa ?
- Khi đã nhận biết
Chúa, bạn phải đặt Người lên chỗ nhất trong cuộc đời bạn. Được như thế, đời
sống mới của bạn sẽ bắt đầu. Bạn nên biết rằng, người Kitô hữu còn yêu thương
cả kẻ thù nghịch mình.
4. Tại sao chúng ta
cần ưu tiên lãnh các Bí tích?
- Chúng ta
cần lãnh các Bí tích để sự sống nhỏ bé của chúng ta tăng triển hơn, nhờ Chúa
Giêsu để nên giống Chúa Giêsu, nên con cái Thiên Chúa, trong tự do và vinh
quang.
(Rm 8,21 Có ngày cũng sẽ được giải thoát, không phải lệ
thuộc vào cảnh hư nát, mà được cùng với con cái Thiên Chúa chung hưởng tự do và
vinh quang).
5. Tại sao tin vào
Chúa Giêsu không đủ, Thiên Chúa còn cho chúng ta các Bí tích nữa?
- Chúng ta
cần đến cùng Chúa không những bằng trí tuệ mà còn bằng cả các giác quan. Đó là
lí do tại sao Chúa ban mình cho chúng ta qua những dấu hiệu ta thấy được, nhất
là qua bánh và rượu trở nên Mình và Máu Chúa Kitô.
(2Pr 1,3-4: Thật vậy, Đức Kitô đã lấy thần lực của Người
mà ban tặng chúng ta tất cả những gì giúp chúng ta được sống và sống đạo đức,
khi Người cho chúng ta biết Đấng đã dùng vinh quang và sức mạnh của mình mà kêu
gọi chúng ta. Nhờ vinh quang và sức mạnh ấy, Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta
những gì rất quý báu và trọng đại Người đã hứa, để nhờ đó, anh em được thông
phần bản tính Thiên Chúa, sau khi đã thoát khỏi cảnh hư đốn do dục vọng gây ra
trong trần gian).
6. Tại sao cần có
lòng tin trước khi nhận lãnh Bí tích?
- Vì Bí tích
không phải là ảo thuật. Bí tích chỉ sinh hiệu quả khi người ta hiểu biết và
lãnh nhận với đức tin.
Các Bí tích không
chỉ đòi có đức tin trước khi lãnh nhận, nó còn gia tăng và chứng tỏ đức tin
nữa.
7. Tại sao chúng ta
cần đức tin và Bí tích để sống đời sống tốt lành, và ngay thẳng?
- Nếu ta chỉ
cậy dựa vào chính mình, vào sức riêng mình, chúng ta không thể đi xa hơn, dù cố
gắng trở nên tốt lành.
Nhờ đức tin, ta
thấy mình là con Thiên Chúa, Chúa sẽ giúp ta mạnh sức. Khi Chúa làm ta mạnh, ta
gọi đó là "ơn Chúa "(grace), nhất là trong dấu tích thánh mà ta gọi
là các Bí tích, Lúc đó, Chúa ban cho ta năng lực để làm việc lành mà ta đang
muốn làm.
(Không có Thầy, các con không thể làm được việc gì. Gioan
15,5).
(Đừng để điều gì làm bạn xao xuyến, đừng để điều gì làm
bạn sợ hãi. Chúa không bao giờ thay đổi. Kiên nhẫn đạt được tất cả. Ai có Chúa
thì không còn muốn gì nữa. Mình Chúa là đầy đủ rồi. Th. Têrêsa Avila).
8. Tại sao chúng ta
thờ phượng Thiên Chúa?
- Vì thờ phượng,
tôn kính là điều xứng hợp đáp lại việc Thiên Chúa hiện hữu và mạc khải của
Người. "Ngươi phải thờ lạy Thiên Chúa Chúa ngươi và phụng sự mình Người
thôi" (Mt 4,10).
(Khi mến Chúa, ta nên sợ Chúa. Khi sợ Chúa, ta nên mến
Chúa. Th. Francis de sales)
---o0o---
BÀI 2
NGƯỜI TRẺ TRƯỞNG THÀNH PHẨM GIÁ
“Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình” (St 1,27)
1. Khi nói con
người được dựng nên theo "hình ảnh Chúa"(God's image), điều đó có
nghĩa thế nào?
- Nghĩa là, con
người không như các loài bất động đất đá, cây cỏ, con vật. Con người có
phần linh thiêng (spirit).
Nhờ đặc tính linh
thiêng, con người được kết hợp với Thiên Chúa hơn là với các thụ tạo hữu hình.
2. Căn cứ vào đâu
con người cư xử bình đẳng với nhau?
- Mọi người
bình đẳng với nhau, vì họ có cùng một nguồn gốc, trong một Thiên Chúa đã tạo
dựng họ vì Tình yêu Người.
Mọi người có cùng một Đấng Cứu chuộc là Chúa Giêsu Kitô.
Mọi người được chỉ định tìm hạnh phúc, và có hạnh phúc muôn đời trong Thiên
Chúa.
3. Lý do nào làm
cho người Kitô hữu có nhân phẩm?
- Mọi người,
từ giây phút đầu tiên trong bụng mẹ, đã có một nhân phẩm không ai được xâm
phạm, vì từ đời đời, Thiên Chúa đã muốn, đã yêu, đã dựng nên và đã cứu chuộc
người đó, và đã định cho họ được hạnh phúc muôn đời.
4. Tại sao Thiên
Chúa làm ra con người có nam có?
- Thiên Chúa
là Tình yêu và là khuôn mẫu của đời sống chung, Thiên Chúa đã dựng nên con
người có nam có nữ, để họ cùng nhau, là hình ảnh của bản tính Người.
5. Trong kế hoạch,
Chúa có định cho con người phải đau khổ và phải chết không?
- Chúa không
muốn cho con người phải đau khổ và phải chết.
Tư tưởng đầu tiên của Chúa là muốn cho con người sống trên Thiên đàng
(paradise), sống đời đời và bình an với Chúa, với mọi người, giữa người nam và
người nữ, với cảnh vật chung quanh.
(Lạy Chúa, quay đi khỏi Chúa sẽ ngã, quay lại với Chúa sẽ
đứng vững, ở lại trong Chúa sẽ chắc chắn được trợ giúp (Th. Augustinô).
6. Khi nói Chúa
Giêsu Kitô "đồng thời là Thiên Chúa thật và là người thật" nghĩa là
sao?
- Trong Chúa
Giêsu, Thiên Chúa trở nên một người như Chúng ta và là anh chúng ta, tuy nhiên,
Người vẫn đồng thời là Thiên Chúa và là Chúa chúng ta.
Công đồng Calcedon
(năm 451) dạy rằng: thiên tính và nhân tính đã nên một trong Chúa Giêsu Kitô
"không chia lìa hoặc lẫn lộn.
7. Tại sao Chúa
Giêsu Kitô là Chúa của cả vũ trụ?
- Chúa Giêsu
Kitô là Chúa của cả vũ trụ và Chúa của lịch sử, vì nhờ Người mà mọi vật được
tạo thành, mọi người được Chúa cứu chuộc, và mọi người sẽ bị Chúa xét xử.
8. Ơn gọi của giáo
dân (lay vocation) là gì?
- Giáo dân
sống trong xã hội đời để làm cho Nước Chúa (kingdom of God) lớn mạnh nơi xã hội
loài người.
---o0o---
BÀI 3
NGƯỜI TRẺ TRƯỞNG THÀNH TÌNH YÊU VÀ TÍNH DỤC
“Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ” (St 1,27)
1. Khi nói con
người là nhân vật có phái tính nghĩa thế nào?
Thiên Chúa sáng tạo
con người có nam có nữ.
Chúa dựng nên họ để
giúp nhau và yêu nhau.
Chúa dựng nên họ
với những ước muốn tính dục và khả năng thú vui thể xác.
Chúa dựng nên họ để
truyền thông sự sống .
2. Tình yêu là gì?
Yêu là tự do ban
mình tự trong lòng.
(1Ga 4,7: Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau,
vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa
sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa).
(Người ta không thể sống thử hoặc chết thử. Người ta
không thể yêu thử, hoặc đón nhận một người thử trong một thời gian. Đức Giáo
hoàng GP2)
3. Dục tính
(sexuality) liên kết với Tình yêu thế nào?
Không được tách rời
dục tính với Tình yêu, cả 2 phải đi liền với nhau.
Dục tính đòi một
Tình yêu chân thành và đáng tin cậy.
(Nhờ dục tính, người nam người nữ trao
mình cho nhau qua những hành vi riêng biệt, lựa chọn trong hôn nhân, không thể
coi đó là nguyên sinh lí, nhưng liên quan đến sự sâu xa nhất của con
người. Điều đó phải được hiểu như sự kéo dài Tình yêu tới chết. Những
hành vi thể lí coi như sự lừa dối, nếu nó không phải là kết quả của hoàn toàn
tự hiến cho nhau. Đức Giáo hoàng GP2)
4. Tình yêu trong
sạch là gì? Tại sao người Công giáo sống Tình yêu trong sạch?
Tình yêu trong sạch
là Tình yêu tự bảo vệ mình chống lại sức ép bên trong và bên ngoài muốn hủy
diệt nó.
Người giữ trong
sạch đón nhận dục tính cách ý thức và cư xử đúng mục đích theo nhân cách của
mình.
Sự trong sạch và
tiết dục không phải là một chuyện. Một số người có những hành vi tính dục
trong đời sống hôn nhân cũng vẫn có sự trong sạch.
Người hành động
cách trong sạch khi những hành vi thể xác họ diễn tả một Tình yêu chung thủy và
đáng tin cậy.
5. Người ta có thể
sống đời trong sạch thế nào?
Một số người sống
trong sạch khi họ tự do yêu đương, và họ không nô lệ trong các xúc cảm kích
thích.
Tuy nhiên, bất cứ
cái gì giúp người ta chín chắn hơn, tự do hơn, yêu thương hơn, liên kết hơn,
người đó cũng biết yêu trong sạch hơn.
(1Pr 5,8: Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh
thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn
xé).
6. Mọi người có
phải sống trong sạch không? Ngay cả người ở trong bậc đôi bạn?
Có. Mọi người Công
giáo cần yêu thương trong sạch, dù là người trẻ hay già, sống độc thân hay đôi
bạn.
(1 Thes 4, 3-5: Ý muốn của Thiên Chúa là anh em nên
thánh, tức là xa lánh gian dâm, mỗi người hãy biết lấy cho mình một người
vợ để sống cách thánh thiện và trong danh dự, chứ không buông theo đam mê
dục vọng như dân ngoại, là những người không biết Thiên Chúa).
7. Tại sao Giáo hội
chống lại những liên kết dục tình trước khi thành hôn?
Vì Giáo hội muốn
bảo vệ Tình yêu (protect love).
Người ta không thể
cho ai món quà nào quí hơn cho bản thân mình.
"Tôi yêu anh, tôi yêu em"
có nghĩa cả 2: “Tôi chỉ muốn anh, tôi chỉ muốn em. Tôi muốn tất cả những gì của
anh, của em. Tôi muốn cho anh, cho em tất cả của tôi mãi mãi”.
Vì thế, Ta không
thể đem cả con người mình ra mà nói: tôi chỉ yêu tạm thời, tôi chỉ yêu thử.
(Trao thân xác bạn cho người khác là nói lên tất cả món
quà mình cho người ta. Đức Giáo hoàng GP2)
9. Thủ dâm
(masturbation) có phạm Tình yêu không?
Thủ dâm phạm đến
Tình yêu, vì nó kích thích khoái lạc nhục dục và thỏa mãn trong chính mình chứ
không trong đôi bạn. Đó là lý do thủ dâm phạm đến Tình yêu.
(GLGHCG 2352 Thủ dâm là cố ý kích
thích các cơ quan sinh dục để tìm một thú vui sắc dục. "Trong đường lối
của một truyền thống lâu bền, Huấn quyền của Giáo Hội cũng như cảm thức luân lý
của các tín hữu vẫn không do dự khẳng định rằng thủ dâm là một hành vi hỗn loạn
nặng nề tự bản chất nó". "Dù với lý do nào, cố ý sử dụng khả năng
sinh dục bên ngoài những quan hệ phu phụ thông thường, đều nghịch với cùng đích
của khả năng sinh dục. Như thế, người ta đã tìm khoái lạc sắc dục bên ngoài
quan hệ tính dục theo luật luân lý, là quan hệ thực hiện một sự hiến thân trọn
vẹn cho nhau và thực hiện việc sinh sản con cái trong một khuôn khổ của tình
yêu đích thực.
Để đưa ra một phán quyết quân bình về trách nhiệm luân lý
của các đương sự, và để định hướng cho hành vi mục vụ, người ta phải lưu tâm
đến sự thiếu trưởng thành về đời sống tình cảm, về sức mạnh của các tập quán họ
đã mắc phải, về tình trạng xao xuyến và các nhân tố tâm thần hoặc nhân tố xã
hội khác, vì tất cả các nhân tố này có thể giảm bớt, thậm chí xoá luôn sự quy
tội luân lý”).
10. Giáo hội phán
đoán thế nào về đồng tính luyến ái?
Thiên Chúa dựng nên
con người có nam có nữ và ấn định cho họ cả về đường thể xác cho nhau.
Giáo hội chấp nhận
những người thấy mình có khuynh hướng đồng tính luyến ái. Ta không nên kì thị
chống đối họ.
Nhưng, Giáo hội
tuyên bố rằng: những giao kết đồng tính luyến ái trong bất cứ hình thức nào đều
nghịch lại trật tự của tạo dựng.
11. Làm sao để giữ
"trong sạch trong lòng"?
Muốn giữ
"trong sạch trong lòng" đòi Tình yêu phải chiếm chỗ nhất trong sự kết
hợp với Thiên Chúa trong sự cầu nguyện.
Khi ơn thánh Chúa chạm tới ta, nó cũng sinh ra đường trong sạch.
Người trong sạch có thể yêu mến với tấm lòng không chia sẻ và chân thật.
(Mt 5,8: Phúc cho ai thanh sạch trong
lòng, họ sẽ được thấy Chúa)
---o0o---
BÀI 4
NGƯỜI TRẺ TRƯỞNG THÀNH VỀ HÔN NHÂN
“Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân
ly” (Mc 10,9)
1. Tại sao Thiên
Chúa sắp đặt cho người nam và người nữ cho nhau?
Thiên Chúa sắp đặt
người nam người nữ cho nhau để họ "không còn là hai nhưng là một" (Mt
19,6). Cách này, họ sống trong Tình yêu, sinh con cái, trở nên dấu hiệu của
chính Chúa, Đấng vô hình nhưng lại tràn trề Tình yêu.
2. Bí tích Hôn phối
diễn ra thế nào?
Bí tích Hôn phối
diễn ra qua lời hứa mà người nam và người nữ nói lên trước Thiên Chúa và Giáo
hội, lời hứa được Thiên Chúa nhìn nhận và làm cho mạnh, và được hoàn tất do
việc kết hợp thể xác của đôi bạn.
Vì chính Chúa lập nên mối ràng buộc của Bí tích Hôn phối, nên nó nối kết cho
đến khi một bên qua đời.
3. Điều gì cần cho
Kitô hữu lãnh Bí tích Hôn phối ?
Cần 3 điều này:
1/ tự ý muốn
2/ quyết sống mãi,
độc quyền kết hợp
3/ sẵn sàng sinh
con cái
Tuy nhiên, điều căn
bản về Bí tích Hôn phối là điều đôi hôn nhân cần biết: "Chúng tôi sống như hình ảnh Chúa Kitô
yêu thương Giáo hội Người"
4. Tại sao Hôn phối
không thể chấm dứt - bất khả phân)?
Hôn phối có 3 bất
khả phân:
1/ vì căn bản Tình
yêu là tự hiến cho nhau không giữ lại gì hết.
2/ vì đó là hình
ảnh trung tín vô điều kiện của Thiên Chúa với thụ tạo của Người.
3/ vì nó diễn tả
Tình yêu Chúa Kitô yêu Giáo hội Người, đến nỗi chết trên Thánh giá.
(Ep 5,25 Người làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính
Đức Kitô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh).
5. Điều gì đe
dọa Hôn phối ?
Điều thực sự đe dọa
Hôn phối là tội.
Điều đổi mới nó là
tha thứ.
Điều làm cho nó
mạnh mẽ là cầu nguyện và trông cậy vào Thiên Chúa hiện diện.
6. Mọi người đều
được gọi sống bậc Hôn phối phải không?
Không phải mọi
người được kêu gọi sống đời Hôn nhân.
Người sống một mình (live alone) cũng có thể làm xong bổn phận mình trong cuộc
sống.
Kết hôn là đường
riêng.
Chúa Giêsu mời gọi
người ta sống không kết bạn: "vì Nước Trời" (Mt 19, 12).
(Nếu Chúa Kitô không có tay, thì tay của chúng ta làm
thay cho Người. -Ẩn danh, thế kỷ 14)
7. Tại sao Giáo hội
cử hành Bí tích Hôn phối ?
Luật cưới hỏi phải
làm công cộng.
Dâu, rể được hỏi về
ý định thành hôn, linh mục, phó tế làm phép nhẫn.
Dâu rể trao đổi
nhẫn cưới và lời hứa "chung thủy với
nhau khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi bệnh nạn cũng như lúc khỏe
mạnh, để tôn trọng nhau suốt đời".
Linh mục phê chuẩn
chấp nhận đám cưới và ban phép lành.
8. Yếu tố nòng cốt
của hôn phối Công giáo là gì?
1/ Một vợ một chồng
(duy nhất- unity). Hôn phối là giao ước do tự nhiên đòi sự liên kết hợp nhất về
xác, về trí, về tinh thần của 2 người nam-nữ.
2/ Mãi mãi có nhau
(bất khả phân chia-indissolubility) hôn phối đòi kéo dài tới chết.
3/ Sẵn sàng đón
nhận con cái.
4/ Cam
kết cho phúc lợi của người phối ngẫu.
9. Người Công giáo
có được kết hôn với người khác đạo không?
Người Công giáo kết
hôn và sống với người đạo khác (vd Phật giáo), có thể là nguyên nhân gây khó
khăn cho đức tin mình, và khó khăn cho con cái sau này.
Bởi trách nhiệm của
Giáo hội đối với các tín hữu, Giáo hội lập ra những ngăn trở khác đạo.
Nhưng những cuộc
Hôn phối như thế vẫn thành phép khi có phép chuẩn của Giáo hội trước khi thành
hôn.
Hôn phối này không
phải là Bí tích.
10. Người chồng và
người vợ luôn "gây chiến" với nhau có được li dị không?
Giáo hội luôn rất
trọng kính khả năng của người ta trong việc giữ lời hứa và tự buộc mình vào sự
trung tín của cuộc sống lâu dài. Giáo hội nhớ lời họ đã đoan hứa.
Mọi cuộc Hôn phối
đều có nguy cơ khủng hoảng.
Họ cần giải quyết
với nhau, cầu nguyện với nhau, năng đi thăm cố vấn trị liệu, cũng như mở
những đường thoát khỏi cuộc khủng hoảng.
Trên hết, nhớ rằng trong Bí tích Hôn phối còn luôn luôn có Người thứ ba ràng
buộc, đó là Chúa Kitô, người ta có thể gợi lên niềm trông cậy hoài hoài.
Có những người
không thể chịu được nữa, khi ai đó bị bạo hành thể xác hay tinh thần, họ có thể
li dị.
Điều này gọi là
"chia giường, chia bàn" trường hợp như thế phải trình Giáo
hội. Trong những trường hợp này, ngay cả khi đời sống chung bị bể, Hôn
phối vẫn còn giữ nguyên tính thành phép".
10. Giáo hội có lập
trường thế nào với những người li dị rồi tái hôn?
Theo gương Chúa
Giêsu, Giáo hội chấp nhận họ cách yêu thương.
Bất cứ ai thành hôn trong Giáo hội, sau đó li dị, rồi tái hôn. Điều này
nghịch lại đòi hỏi rõ ràng của Chúa Giêsu "Hôn phối bất khả phân".
Giáo hội không thể xóa bỏ đòi hỏi yêu cầu này. Rút lại sự trung tín như thế,
phản lại với Bí tích Thánh Thể, là Bí tích nói lên đặc tính Tình yêu Thiên Chúa
không thể lấy lại, mà Giáo hội cử hành.
Đó là lí do tại sao
những người tái hôn này không được Rước lễ.
11. Khi nói gia
đình là Giáo hội thu nhỏ nghĩa là gì?
Giáo hội ở trên qui
mô lớn, gia đình ở trên qui mô nhỏ, đó là hình ảnh Tình yêu Chúa trong tình bạn
nhân loại.
Thực vậy, mọi cuộc
Hôn phối đều hoàn toàn mở ra cho người bạn đời, cho con cái Thiên Chúa gửi đến,
cho sự chấp nhận nhau, cho sự hiếu khách với tha nhân.
---o0o---
BÀI 5
NGƯỜI TRẺ TRƯỞNG THÀNH TỰ DO VÀ LƯƠNG
TÂM
“Ai thiết tha và trung thành tuân giữ luật trọn hảo -luật
mang lại tự do-, ai thi hành luật Chúa, chứ không nghe qua rồi bỏ, thì sẽ tìm
được hạnh phúc trong mọi việc mình làm” (Gc 1,25)
1. Tự do (freedom)
là gì và để làm gì?
Tự do là sức mạnh
Chúa ban để người ta có thể làm theo sự phù hợp với mình. Người tự
do không còn hành động dưới ảnh hưởng của người khác.
(Chỉ có người phó thác mình trọn vẹn cho Thiên Chúa mới
có tự do thực, cao cả, tự do sáng tạo mênh mông của sự thiện. ĐTC Bênedict 16
2005)
2. Tự do có cho
người ta chọn sự dữ không?
Sự dữ chỉ coi như
đáng giá khi người ta gắng đạt được nó. Quyết định đạt được sự dữ chỉ cho
người ta tự do bên ngoài.
Sự dữ không làm cho ta hạnh phúc, nhưng thực ra nó tước bỏ điều tốt lành thật.
Nó xiềng xích ta lại với cái vô bổ và cuối cùng tiêu hủy hoàn toàn tự do
của ta.
3. Người ta có
trách nhiệm về mọi việc mình làm không?
Người ta có trách
nhiệm về mọi việc mình làm với hiểu biết và ý muốn.
(Người tốt là người tự do, cả khi họ là người nô lệ.
Người độc ác là người nô lệ, cả khi họ là ông vua. Th. Augustinô)
5. Thiên Chúa giúp
chúng ta thành người "tự do" thế nào?
Chúa Kitô muốn
chúng ta "được tự do" (Galata 5,1) và có thể thực hiện tình bác ái
huynh đệ. Vì thế, Người đã sai Chúa Thánh Thần đến với chúng ta, Đấng cho ta tự
do và độc lập với quyền lực đời này, thêm sức cho ta sống trong Tình yêu và
trách nhiệm.
(Rm 8,15-16: Vì Thần Khí mà anh em đã lãnh
nhận được, đâu phải là tinh thần nô lệ, khiến anh em phải sợ sệt như xưa; nhưng
là Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, khiến chúng ta được kêu lên,
"Ápba! Cha ơi!").
6. Làm sao một
người có thể nói hành động của mình tốt hay xấu?
Người ta có thể
phân biệt hành động của mình tốt hay xấu nhờ họ có lí trí và lương tâm, 2 cái
đó giúp họ phán đoán rõ ràng.
(Lương tâm là trung tâm điểm sâu thẳm nhất và bí ẩn nhất
của con người, đó là cung thánh nơi mà con người ở một mình với Thiên Chúa và
là nơi con người nghe thấy tiếng của Ngài" - HC Mục vụ).
7. Tại sao Thiên
Chúa cho chúng ta có "đam mê" hoặc "cảm xúc"?
Chúng ta có nhiều
đam mê để nhờ các đam mê mạnh mẽ và những cảm giác riêng biệt ấy, ta có thể
hướng tới điều phải, điều thiện, và cự tuyệt điều dữ, điều xấu.
8. Lương tâm
(conscience) là gì?
Lương tâm là tiếng
nói bên trong con người, bảo nó làm thiện dưới bất cứ hoàn cảnh nào và tránh
làm dữ bằng mọi cách.
Đồng thời, lương
tâm là khả năng phân biệt việc này với việc kia.
Thiên Chúa nói với ta qua tiếng lương tâm.
(Bất cứ việc gì được làm nghịch lại lương tâm, đều là
tội. Th. Tôma Aquinô)
10. Người ta có thể
huấn luyện lương tâm mình không?
Có. Cần phải tự
huấn luyện lương tâm mình.
Lương tâm được Chúa phú bẩm cái lý lẽ cho mọi người, nó có thể bị lừa hay bị
chết, vì vậy cần được điều chỉnh sao cho nó biết hành động tốt.
11. Nhân đức nghĩa
là gì?
Nhân đức là khuynh
hướng bên trong, một thói quen tích cực để làm việc lành.
(Mt 5,6 Phúc cho ai đói khát sự công chính, vì họ sẽ được
thoả lòng).
12. Làm sao người
ta được khôn ngoan (prudent)?
Người ta nên khôn
ngoan nhờ học biết phân biệt cái gì chính yếu cái gì không chính yếu đặt cái
đích đúng và chọn phương tiện tốt nhất để đạt đích.
(Khôn ngoan có 2 mắt: một thấy trước điều phải làm, một
xem lại điều đã làm. Th. Ignatio Loyola)
13. Người ta hành
động thế nào là công bình?
Người hành động
công bình là người luôn luôn chắc chắn trả cho Thiên Chúa cái gì của Thiên
Chúa, cho tha nhân cái gì của tha nhân.
14. Đức can đảm là
gì?
Là người kiên nhẫn
dấn thân trong việc tốt, khi họ đã nhận ra, dù cực điểm họ phải hy sinh tính
mạng mình.
(Người can đảm, dù may hay rủi (misfortune) cũng coi như
họ có 2 tay, họ dùng cả 2. Thánh nữ Catarina Siena).
15. Tại sao tiết độ
là nhân đức ?
Vì thái độ vô tiết
độ chứng tỏ sức tiêu hủy trong mọi lãnh vực của đời sống.
(Titô 2,11-12: Quả thế, ân sủng của Thiên Chúa … dạy
chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng
mực, công chính và đạo đức ở thế gian này).
---o0o---
BÀI 6
NGƯỜI TRẺ TRƯỞNG THÀNH VỀ SỰ THẬT
“Sự thật sẽ giải phóng anh em” (Ga 8,32)
1. Điều răn thứ 8:
Chớ làm chứng dối, đòi ta điều gì?
Điều răn thứ 8 dạy
chúng ta không nói dối (not to lie).
Nói dối là biết và
cố ý nói hay làm ngược sự thật.
Người nói dối lừa
chính mình và dẫn sai người khác là người có quyền biết đầy đủ sự thật của vấn
đề.
(Xuất hành 20, 16: Đừng làm chứng gian chống người lân
cận).
2. Ta phải giữ sự
thật trước mặt Thiên Chúa thế nào?
Tôn trọng sự thật nghĩa
là không những tôn trọng với mình, mà còn tôn trọng trước mặt Chúa nữa, Người
là nguồn mạch sự thật (chân lý).
Người ta tìm thấy sự thật về Thiên Chúa và về Chúa Giêsu Kitô, Người là "Đường đi, là Sự Thật, và là Sự
Sống" (Gioan 14,6).
3. Sự thật về đức
tin buộc mạnh thế nào?
Mọi người Công giáo
phải làm chứng (testimony) cho sự thật, theo gương Chúa Giêsu, trước tòa
Philatô, Người nói "Ta ra đời và đến
trong thế gian là để làm chứng cho Sự Thật" (Ga 18,37).
(Sống thế nào để ngày mai bạn có thể chết như vị tử đạo.
Charles de Foucauld)
4. Trung thực
(truthful) có nghĩa là gì?
Sự trung thực nghĩa
là ai đó hành động một cách chân thành và nói một cách lương thiện (thành
thật).
Sự trung thực giữ
cho cá nhân không hai lòng, trình bày sai lạc, lường gạt độc
hại, và giả dối.
Hình thức tồi
tệ nhất của sự thiếu thành thật là tội khai man.
5. Tại sao nói sự
thật đòi sự cẩn trọng?
Thông báo một sự
thật, đòi ai đó phải làm cách khôn ngoan trong cả một toàn cảnh đức bác ái.
Thường sự
thật được dùng như một võ khí, nó có thể sinh hiệu quả phá hơn là
xây.
6. Bí mật Tòa Giải
tội phải giữ thế nào?
Sự bí mật trong Tòa
giải tội là thánh thiêng (sacred), không thể được xâm phạm bất cứ cách nào. Đây
là điều buộc nặng.
7. Các phương tiện
truyền thông có trách nhiệm đạo đức nào không?
Nhà sản xuất phương
tiện truyền thông có trách nhiệm với khách hàng. Họ phải trung thành với sự
thật khi lượm tin và khi loan tin. Họ phải tôn trọng quyền lợi và nhân phẩm của
khách hàng.
8. Truyền thông có
hiệu quả nguy hại thế nào?
Nhiều người, nhất
là trẻ em nghĩ rằng những gì chúng coi trên truyền thông (media) đều là
thực (real).
Nếu vì sự giải trí
mà những cảnh bạo động được ca tụng, những thái độ chống xã hội được chấp nhận,
dục tính con người được, thì đó là tội trong truyền thông mà cả 2 phía phải
chịu trách nhiệm: phía người làm truyền thông và phía người kiểm duyệt, lẽ ra
phải chặn đứng nó ngay.
9. Vẻ đẹp và
sự thật, 2 nghệ thuật này hòa hợp thế nào?
Vẻ đẹp và sự thật
sánh bước với nhau, vì Thiên Chúa là nguồn làm nên cả 2. Nghệ thuật (Art) tôn
vinh vẻ đẹp, do đó nghệ thuật là đường đặc biệt dẫn con người tới Thiên Chúa.
(Điều không nói lên được bằng lời thì được diễn tả bằng
nghệ thuật).
---o0o---
BÀI 7
NGƯỜI TRẺ THAM DỰ VÀO
KẾ HOẠCH YÊU THƯƠNG CỦA THIÊN CHÚA
1. Khi tạo dựng thế giới và nhân loại chúng ta, Thiên Chúa có thực hiện
theo kế hoạch định trước không?
Có, Thiên Chúa đã
tạo nên cả thế giới theo ý tưởng và kế hoạch của Ngài. Thiên Chúa tạo nên thế
giới và nhân loại cũng giống như con người có thể nghĩ ra một trò chơi, ví dụ
như một môn cờ với luật chơi để tạo cho trò chơi ấy được hoàn toàn hợp lý. Tình
yêu là nguyên lý thiết yếu như sợi tơ hồng xuyên suốt sự sáng tạo của Thiên
Chúa. Cho nên, trong ý định của Thiên Chúa con người phải yêu thương và đáp lại
tình yêu của Thiên Chúa, như vậy con người phải suy nghĩ, nói năng và hành động
bằng chính lòng yêu thương. (x. Ep)
Tâm niệm: “Tôi được tạo nên để thực hiện bổn phận trong
bậc sống riêng mình, một thụ tạo độc đáo; Thiên Chúa tiền định cho tôi một nơi
thích hợp trong ý định của Ngài; dù tôi giàu hay nghèo, dù người đời có khen
chê, hay khinh thường, Thiên Chúa vẫn biết tôi và gọi chính tên tôi” (Chân phước John Henry Newman).
2. Con người có được kêu gọi yêu thương không?
Có, yêu thương và
được thương yêu luôn chất chứa sâu xa trong bản chất con người. Về điều này,
chính Thiên Chúa là mẫu mực lý tưởng cho chúng ta. Chúa Giêsu đã tỏ cho chúng
ta biết Thiên Chúa là Tình Yêu. Giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần luôn
diễn ra tình yêu vĩnh cửu. Một con người biết yêu thương cũng được chia sẻ vào
sự hiệp thông tình yêu này. Cuộc đời chúng ta chỉ có thể sinh hoa kết trái khi
chúng ta không khép lòng mình khỏi suối nguồn tình yêu Thiên Chúa, mà đúng hơn
là mở tâm hồn chúng ta ra với tình yêu của Chúa. Yêu thương khiến cho ta mở
lòng ra với các nhu cầu của những người chung quanh và làm cho ta có khả năng
vượt ra khỏi bản thân. Chúa Giêsu Kitô vì yêu nhân loại đã tự hiến mạng sống
mình chịu chết trên thập giá, Người đã hoàn tất kỳ công vĩ đại nhất của tình
yêu bằng cách hy sinh chính mạng sống mình.
Tâm niệm: “Tình thương bắt đầu hôm nay.
Hôm nay ai đó đang đau khổ, hôm nay ai đó đang vất vưởng ngoài đường phố, hôm
nay ai đó đang đói. Công việc của chúng ta là cho ngày hôm nay, hôm qua đã trôi
qua rồi, ngày mai thì chưa đến. Chỉ hôm nay chúng ta mới làm cho Chúa Giêsu
được biết đến, được yêu, được phục vụ, được cho ăn, được cho mặc, được cho ở.
Đừng chờ đến ngày mai. Ngày mai chúng ta không còn họ nữa nếu hôm nay chúng ta
không cho họ ăn” (T. Têrêsa Calcutta).
3. Sự thay đổi
của xã hội diễn ra thế nào?
Tin Mừng trong Kinh
Thánh, hay việc Thiên Chúa tự mạc khải sẽ thay đổi chúng ta về mọi phương diện.
Chúng ta tìm được cách nhìn mới về thế giới và xã hội của mình. Tất cả sự thay
đổi khởi đầu từ trái tim con người: trước tiên, bản thân con người phải thay
đổi về nội tâm, suy nghĩ và sống theo huấn lệnh của Thiên Chúa, thì sau đó
người ấy mới có thể tác động đến môi trường xã hội bên ngoài. Hoán cải tâm hồn
là điều chúng ta luôn phải cố gắng thực hiện mỗi ngày, đó là bước khởi đầu thật
sự cho một thế giới tốt đẹp hơn. Chỉ bằng cách hoán cải chúng ta mới có thể
nhận ra đường hướng cần thiết để cải thiện và thay đổi các thể chế và hệ
thống.
Tâm niệm: “Ai mà không sống yêu thương, dù chỉ một
người cũng không thương được, thì người ấy không thể làm đẹp lòng Chúa. Chúng
ta phải yêu thương hết mọi người, như Chúa Giêsu đã yêu thương và mong muốn cho
họ mọi sự tốt lành; chúng ta làm cho họ càng được nhiều điều tốt đẹp càng tốt,
bằng việc dấn thân cho phần rỗi linh hồn họ, và sẵn sàng chịu đổ máu vì từng
người họ” (Chân Phước Charles de
Foucauld).
4. Nhiệm vụ
của Giáo Hội trong kế hoạch tổng thể của Thiên Chúa như thế nào?
Tình yêu của Thiên
Chúa trong kế hoạch tổng thể của Ngài là ơn cứu độ và công trình cứu chuộc tất
cả mọi người nhờ vào Con Ngài, Chúa Giêsu Kitô. Giáo Hội hiện hữu vì Chúa Giêsu
mời gọi chúng ta đi vào sự hiệp thông cứu rỗi sâu xa với Người. Sự hiệp thông
này, là “Thân Thể Chúa Kitô” chính là Hội Thánh. Qua Phép Rửa và các bí tích
khác, chúng ta thuộc về Chúa Kitô, nhờ Người, chúng ta được ban cho sự sống mới
bất diệt. Nhờ để tâm trí vào Lời Chúa, chúng ta vâng theo ý muốn của Người.
Giáo Hội là nơi chúng ta có thể tăng triển trong tình yêu Thiên Chúa. Giáo Hội
không phải là cứu cánh của chính mình. Giáo Hội có trách nhiệm với con người và
xã hội, và bằng sứ vụ của mình Giáo Hội phải góp phần vào nền hòa bình và sự
phát triển gia đình nhân loại.
Tâm niệm: “Sẽ được ích gì nếu một người
giành lấy cho được cả thế gian này, rồi cuối cùng ngồi đấy mang vào thân đủ
loại bệnh hoạn?” (John Steinberk, nhà văn Mỹ).
5. Có thấy
được Vương quốc Thiên Chúa nơi Giáo Hội không?
Hội Thánh hiện hữu
“để không gian này có thể được tạo nên thế giới cho Thiên Chúa, để Ngài có thể
cư ngụ ở đó, nhờ vậy thế giới có thể trở thành “Vương quốc” của Ngài (Joseph
Ratzinger). Với sự hiện diện của Chúa Giêsu Kitô, Vương quốc Thiên Chúa đã thực
sự khởi đầu trên thế giới này. Bất cứ nơi đâu các bí tích được cử hành, thì thế
giới cũ của tội lỗi và sự chết bị tiêu diệt tận gốc rễ và được biến đổi. Một
sáng tạo mới bắt đầu; Vương quốc Thiên Chúa trở nên hữu hình. Tuy vậy, nếu các
Kitô hữu không thể hiện sự sống mới đã được ban cho họ thành hành động thiết
thực, thì các bí tích chỉ là các dấu chỉ trống rỗng. Người ta không thể vừa đi
lãnh nhận Bánh Thánh lại vừa từ chối cho kẻ khác cơm bánh. Các bí tích mời gọi
chúng ta có được một tình yêu sẵn sàng “đi ra khỏi chính mình và đi tới những
vùng ngoại vi, không chỉ theo nghĩa địa lý mà còn theo nghĩa hiện sinh: được tỏ
lộ trong huyền nhiệm tội lỗi, đau khổ, bất công và dốt nát, dửng dưng với tôn
giáo, các trào lưu tư tưởng và mọi cảnh nghèo khổ. (diễn văn của Hồng Y
Bergoglio tại tiền mật nghị hồng y bầu GH).
Tâm niệm: “Giáo Hội phục vụ những người nghèo khổ không phải vì họ là người Công
giáo, nhưng bởi vì chúng ta là người Công Giáo” (ĐGM
Fulton J. Sheen).
---o0o---
BÀI 8
NGƯỜI TRẺ DẤN THÂN XÂY DỰNG CÔNG ÍCH VÀ LIÊN ĐỚI
1. "Công
ích" nghĩa là gì?
Công Đồng Vatican
II diễn tả công ích là "toàn bộ những điều kiện của đời sống xã hội cho
phép những tập thể hay những phần tử riêng rẽ có thể đạt tới sự hoàn hảo riêng
một cách đầy đủ và dễ dàng hơn" (GS 26). Mục tiêu của cá nhân là đạt được
lợi ích. Mục tiêu của xã hội là công ích. "Thật vậy, có thể hiểu công ích
như là chiều kích xã hội và cộng đồng về điều thiện luân lý." (Tóm Lược Học Thuyết Xã Hội 164).
Công ích đề cập đến lợi ích của hết mọi người và lợi ích của của toàn bộ con
người. Trước nhất, công ích đòi hỏi các thành phần chính phủ phải hoạt động
theo đúng qui trình trật tự, như được thấy ở một nước có hiến pháp. Kế đến, phải quan tâm duy trì các phương tiện tự
nhiên để sinh sống. Trong khuôn khổ này là các quyền của mọi người được có thực
phẩm, chỗ ở, y tế, việc làm và được học hành. Ngoài ra, còn phải được tự do tư
tưởng, tự do hội họp, và tự do tôn giáo. Các đòi hỏi ở đây về công ích phần nào
trùng hợp với các đòi hỏi về các quyền phổ quát của con người.
Tâm niệm: “Bất cứ điều tốt nào xảy ra trên trái đất
này thì đều có ai đó đã làm nhiều hơn việc mình phải làm. Chẳng ai có thể làm
cho tôi điều lợi ích mà tôi chưa làm như vậy” (Hermann Gmeiner).
2. Công ích có ý
nghĩa gì với người nghèo?
Người nghèo phải
được xem là trọng tâm của Giáo Hội, nếu không thì Giáo Hội phản bội lại sứ mệnh
của mình. Trong HCMV Niềm Vui và Hy Vọng của Công Đồng Vatican II nói về sự chọn lựa ưu tiên dành cho người
nghèo (GS 1). Từ Hiến Chế này dẫn đến các nghĩa vụ xã hội trọng tâm
của cá nhân và của toàn thể Giáo Hội phải quan tâm đến các nhu cầu của con
người, đặc biệt là những người đang ở những vùng bên lề xã hội. Tám Mối Phúc
Thật trong Bài Giảng Trên Núi, sự khó nghèo của chính Chúa Giêsu, và sự yêu
thương quan tâm của Người với người nghèo cho chúng ta thấy con đường ấy. Việc
ủng hộ giúp đỡ những người bị thiệt thòi, bị gạt ra bên lề là một mệnh lệnh
trực tiếp của Chúa Giêsu: "mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong
những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy"
(Mt 25:40). Tuy thế, Chúa Giêsu cũng cảnh tỉnh quan điểm theo ý thức hệ cho
rằng chúng ta hoàn toàn có thể loại trừ hết đói nghèo trên thế giới (Mt 26:11).
Điều này chỉ có thể xảy ra khi Chúa Kitô Đến Lần Thứ Hai.
Tâm niệm: “Thế giới có đủ cho nhu cầu của hết mọi
người, nhưng không đủ cho lòng tham của mọi người” (Mahatma
Gandhi).
3. Làm sao có thể
chia sẻ được trách nhiệm mà không ỷ lại?
Bằng cách tham gia. Sự tham gia của công dân
là nền tảng của dân chủ, do đó cũng quan trọng đối với các Kitô hữu. Kitô hữu
thể hiện tình liên đới bằng việc tìm cách tham gia vào xã hội dân sự và tác
động đến vận mệnh của xã hội. Bằng cách này, họ để ý đến trách nhiệm của mình
phải định hướng phát triển thế giới. Khả năng tham gia phải được bảo đảm cho hết
mọi công dân để tạo được điều gọi là cơ hội tham gia công bằng (xem bên dưới).
Tâm niệm: “Trách nhiệm đối với bản thân là gốc rễ của
tất cả trách nhiệm” (Mạnh Tử, nhà hiền triết Trung Hoa).
4. Tại sao Giáo Hội
thực hành tình liên đới?
Một Giáo Hội tỏ ra
không có tình liên đới thì sẽ hóa thành mâu thuẫn với chính danh của mình. Giáo
Hội là nơi Thiên Chúa liên đới trường cửu với nhân loại. Trong sự hiệp thông
của Giáo Hội, tình yêu Thiên Chúa phải được tiếp diễn nơi con người và cuối
cùng là vươn đến toàn thể nhân loại. Giáo Hội là nơi Thiên Chúa muốn qui tụ tất
cả mọi người: “Nầy, Thiên Chúa ở cùng nhân loại.” (Kh 21: 3). Giáo Hội là “dấu
chỉ và khí cụ của sự kết hiệp thật mật thiết với Thiên Chúa và là sự hiệp nhất
của toàn thể nhân loại” (LG 1). Qua Giáo Hội của Người, theo gương Chúa Giêsu,
Giáo Hội thể hiện tình liên đới với những người cô thế, những nạn nhân của bất
công, và người nghèo trong mỗi thời đại của Giáo Hội, Thiên Chúa cất công đến
với tất cả mọi dân tộc, và mọi nền văn hóa và giúp đỡ họ. Bất cứ khi nào con
người cố gắng hình thành một thế giới nhân đạo hơn, thì Thiên Chúa đứng về phía
họ. Do đó, Giáo Hội thể hiện tình liên đới với tất cả những ai muốn chung phần
tạo cho con người nơi trần thế nhận ra khuôn mặt cứu độ của Thiên Chúa.
Tâm niệm: “Nam cũng như nữ, chúng ta cùng chung trên một con tàu giữa biển
phong ba bão tố. Chúng ta đều có nghĩa vụ phải thành tâm với nhau dù giữa chốn
gian nan thử thách” (G.K Chesterton (1874-1936).
5. Nguyên tắc liên
đới có hàm ý gì?
Nguyên tắc liên đới
diễn tả chiều kích xã hội của con người. Không ai có thể chỉ sống cho riêng
mình; họ lúc nào cũng phải nhờ đến người khác, và không chỉ nhận được sự trợ
giúp thiết thực, mà còn để có người trò chuyện, để trưởng thành đi tới sự hiểu
biết các ý tưởng, lý luận, nhu cầu và ước muốn của người khác, và để có thể
phát triển tính cách của mình hoàn thiện hơn.
Tâm niệm: “Chúng ta học bay như
chim trên trời, chúng ta học bơi như cá dưới biển, song chúng ta chưa học đi
trên đất như anh chị em” (Martin Luther King).
6. Đối với tín hữu,
lý do cơ bản nhất để thực thi tình liên đới là gì?
Là vì tình liên đới
của Chúa Giêsu. Không ai từng thực thi tình liên đới tuyệt vời hơn Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu đã đến như dấu chỉ sống động của tình liên đới của Thiên Chúa với
nhân loại, mà con người không thể tự cứu mình. Con Thiên Chúa không chỉ công bố
tình liên đới của mình với tất cả nhân loại, Người thậm chí còn hy sinh mạng
sống cho chúng ta. Sự hiến thân hoàn toàn vì lợi ích của người khác như vậy
diễn tả tình liên đới và tình yêu tuyệt đỉnh, sự tận hiến này phải trở nên tiêu
chuẩn cho hành động Kitô giáo.
Tâm niệm: “Bản chất sâu xa nhất của tình yêu là quên
mình” (Edith Stein). “Công
bằng mà không thương xót thì thiếu bác ái; thương xót mà không công bằng thì
làm thành hư hỏng” (Friedrich Von Bodelschwingh)
7. Ta phải
dùng cải của trái đất này như thế nào?
Thiên Chúa đã dựng
nên thế giới này cho hết mọi người. Với sự cộng tác của con người, trái đất sản
sinh của cải và mang lại các vụ thu hoạch. Về nguyên tắc, mọi người đều nên
được tùy nghi sử dụng của cải mà không được đối xử ưu đãi thiên vị và phải đáp ứng
vì lợi ích của mọi người. Mọi người đều có quyền hưởng những gì cần thiết cho
họ, mà không ai được từ chối giúp họ, dù biết là mình có quyền tư hữu tài sản
và của cải thì bao giờ cũng có kẻ nhiều người ít khác nhau. Bất cứ khi nào có
người dư thừa mà kẻ khác lại thiếu những nhu cầu tối thiểu cho cuộc sống, thì
tình trạng này không chỉ cần đến lòng bác ái mà hơn hết là sự công bằng.
Tâm niệm: “Khi tôi cho người nghèo của ăn, họ gọi tôi
là thánh. Khi tôi hỏi tại sao họ nghèo, họ gọi tôi là người cộng sản” (TGM
Dom Hélder Camara).
---o0o---
BÀI 9
NGƯỜI TRẺ TÍCH CỰC HOẠT ĐỘNG
NHẰM NÂNG CAO PHẨM GIÁ CON NGƯỜI
1. Khi nói về
con người, chúng ta muốn nói điều gì?
Với từ
"người", ta diễn tả một sự thật rằng mỗi con người có một phẩm giá
bất khả xâm phạm. Con người được dựng nên theo hình ảnh của → Thiên Chúa (St
1:27). Vì vậy, con người là một thụ tạo của Thiên Chúa, biểu hiện chính Đấng
Tạo Hóa mình trong công trình sáng tạo. Con người là "thụ tạo duy nhất ở
trần gian được Thiên Chúa dựng nên vì chính họ" (GS 24). Là con người được
Thiên Chúa dựng nên, con người không phải là sự vật, mà là người và
vì thế có giá trị độc đáo. Là người, con người có khả năng tự nhận thức và suy
tư về chính mình, tự do đưa ra quyết định và tham gia vào cộng đồng cùng với
những người khác. Và con người được kêu gọi đáp lại Thiên Chúa bằng đức tin.
Quả thực, con người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, cho nên cũng có
nghĩa là bao giờ con người cũng luôn tương quan với Thiên Chúa và có thể phát
triển trọn vẹn tiềm năng nhân vị của mình chỉ trong Thiên Chúa.
Tâm niệm: “Hình ảnh Thiên Chúa (Latinh: imago dei): Học thuyết xã hội này miêu
tả theo Kinh Thánh (St 1,26-27) Vị trí nổi bật của con người trong tất cả
các thụ tạo: con người là sinh vật có thể tương giao với Thiên Chúa. Trong
tận bản tính sâu thẳm của mình, con người là một sinh vật có xã hội tính” (Gaudium
Et Spes, 12).
2. Tại sao mỗi
người là một sinh vật có xã hội tính?
Con người chỉ có
thể tồn tại và phát triển với sự giúp đỡ của những người khác. Con người không
những cần phải sống trong mối tương quan tốt với Thiên Chúa, mà người ta còn
phải biết sống giữ gìn thận trọng mối giao hảo với những người khác. Điều này
bắt đầu từ trong gia đình, rồi sau đó ảnh hưởng đến nhóm bạn hữu của mình và
cuối cùng, ảnh hưởng đến cả xã hội nữa. Sự thật, nền tảng của chiều kích xã hội của con người là
người ta được dựng nên thành người nam và người nữ (St 2:23). Ngay từ đầu,
người nam và người nữ có cùng một phẩm giá. Bằng sự giúp đỡ và bổ túc cho nhau,
họ có thể đương đầu với cuộc sống. Thiên Chúa làm cho sự hiệp nhất yêu thương
giữa người nam và người nữ trổ sinh hoa trái khi được ban cho con cái. Đây là
lý do tại sao gia đình là tế bào cơ bản của mọi xã hội.
Tâm niệm: “Chúng ta công nhận rằng các sự thật hiển nhiên này là mọi người
được dựng nên đều bình đẳng, được Đấng Tạo Hóa phú ban các quyền bất khả xâm
phạm, trong các quyền này là quyền Sống, quyền Tự Do và quyền mưu cầu Hạnh
Phúc” (Tuyên ngôn Độc lập của 13 thuộc địa thành
lập Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ).
3. Sự hợp nhất
của con người chứa đựng điều gì?
Con người có thân
xác và linh hồn, nhưng đây không phải là các thực thể riêng biệt mà là một thực
thể đơn nhất. Con người lúc nào cũng là sự hợp nhất gồm cả xác và hồn. Chủ nghĩa duy
vật coi linh hồn chỉ như một chức năng đơn thuần của cơ thể vật chất;
ngược lại, chủ nghĩa duy linh lại
đánh giá linh hồn quá cao đến độ xem nhẹ thân xác. Giáo Hội bác bỏ cả hai niềm
tin sai lầm này. Thân xác người ta không phải là nhà tù của linh hồn, và linh
hồn là phần thiết yếu của con người sống động. Nhờ vào thân xác của mình, con
người được nối kết với trái đất, cho nên là một phần của thế giới tự nhiên. Với
linh hồn thiêng liêng của mình, con người không những tìm thấy căn tính cá nhân
của mình ("cái tôi" của mình), mà linh hồn còn chiêm ngắm Thiên Chúa
và được Ngài mãi mãi nhìn đến. Linh hồn là bất tử. Nhưng cũng không bao giờ
được xem thường thân xác, vì thân xác được Thiên Chúa dựng nên thành hữu thể
tốt đẹp và thân xác được cho sống lại vào ngày tận thế. Chúa Giêsu nhận ra
những đau khổ nơi thân xác của con người và chữa lành họ. Con người cùng một
lúc vừa là hữu thể thần linh vừa là hữu thể vật chất.
Tâm niệm: “Đừng bỏ bê linh hồn của riêng bạn. Nếu linh
hồn bạn bị lãng quên, thì bạn không thể cho người khác những gì bạn có bổn phận
phải cho họ. Đó là lý do tại sao bạn cũng phải dành thời gian cho chính mình,
cho linh hồn của bạn” (T. Charles Borromeo).
4. Điều gì làm
cho mỗi người trở thành độc đáo?
Mỗi con người đều
độc đáo hoặc duy nhất vì mỗi người được dựng nên không thể bị trùng lặp, bởi
Thánh ý Thiên Chúa và tình yêu của Ngài, và con người được cứu chuộc bằng tình
yêu còn lớn lao hơn nữa. Điều này cho chúng ta thấy con người có phẩm giá cao
quí biết bao, và phải nhìn nhận mọi người hoàn toàn nghiêm túc và đối xử với họ
bằng sự tôn trọng ưu tiên trên hết quan trọng đến thế nào. Các chế độ chính trị
và các thể chế cũng phải đáp ứng các đòi hỏi như vậy trong thực tế. Họ không
chỉ phải tôn trọng sự tự do và phẩm giá của con người, mà còn phải đóng góp cho
sự phát triển toàn diện của mọi người. Một cộng đồng không được phép loại trừ
các cá nhân hoặc toàn bộ các nhóm ra khỏi sự phát triển.
Tâm niệm: “Nhận ra người khác là nhận ra sự thiếu thốn
đói khát. Nhận ra người khác là biết cho đi. ... Chỉ lúc cho đi hay từ chối tôi
mới có thể nhận ra cái nhìn của người lạ, của góa phụ và của trẻ mồ côi” (Emmanuel
Levinas).
5. Tin Mừng có đồng
nghĩa với trợ giúp phát triển không?
Trợ giúp phát triển
và loan báo Tin Mừng phải đi đôi với nhau. Cùng với Phụng vụ và loan báo Tin
Mừng, còn có việc bác ái – tình yêu thương thiết thực đối với tha nhân, là một
trong ba hoạt động cơ bản của Giáo Hội. Nếu Giáo Hội chỉ loan báo Tin Mừng
trong khi dửng dưng với các điều kiện sống khốn khổ của con người, thì Giáo Hội
đó sẽ phản bội Chúa Giêsu, Người đã chấp nhận chữa lành cả thể xác lẫn linh hồn
của con người, nam cũng như nữ trong tình trạng cá biệt và nhu cầu xã hội của
mỗi cá nhân họ. Nhưng nếu Giáo Hội chỉ cổ võ phát triển xã hội của con người
thôi, mà quên đi việc kêu gọi con người hiệp thông đời đời với Chúa thì Giáo
Hội sẽ hướng số phận cuộc đời con người đi đến chỗ lầm lạc, và Giáo Hội cũng sẽ
coi nhẹ giá trị đời sống Kitô hữu là chi thể của Chúa Kitô trong vận mệnh xã
hội của họ. Tách sứ điệp xã hội của Tin Mừng ra khỏi sứ điệp đức tin của Tin
Mừng thì cũng chẳng khác nào chia tách Tin Mừng ra làm hai.
Tâm niệm: ”Sao người ta có thể loan báo giới răn mới
[đức ái] mà lại không cổ võ sự thăng tiến đích thực của con người trong công lý
và hòa bình?” (Tông huấn Evangelii Nuntiandi, số 31).
6. Học thuyết xã
hội và đức tin có liên quan thế nào?
Không phải ai hoạt
động xã hội hoặc tham gia chính trị cũng đều là Kitô hữu. Nhưng một người hầu
như khó có thể xưng mình là Kitô hữu nếu người ấy không dấn thân vào xã hội.
Tin Mừng dẫn dắt con người cách triệt để đến chỗ dấn thân bằng tình yêu thương,
công lý, tự do và hòa bình. Khi Chúa Giêsu công bố về Nước Thiên Chúa đã đến,
Người không chỉ chữa lành và cứu sống các cá nhân nào đó thôi, mà hơn thế,
Người còn bắt đầu thành lập một cộng đồng mới – một vương quốc của công lý và
hòa bình. Trong tình trạng ấy chắc chắn chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể kiện
toàn vương quốc này. Tuy nhiên, các Kitô hữu phải cùng hoạt động để kiến tạo
nên một xã hội tốt đẹp hơn. Họ cần phải xây dựng một đô thị cho con người “có
tình người hơn vì đô thị ấy phù hợp với Nước Thiên Chúa nhiều hơn” (Bản Tóm Lược Học thuyết Xã hội 63). Khi
Chúa Giêsu so sánh Nước Thiên Chúa với men dần dần nó sẽ làm dậy lên cả khối
bột lớn (Mt 13:33), Người có ý nói đến đường lối hoạt động mà các Kitô hữu phải
thực hiện trong xã hội.
Tâm niệm: “Ai nghĩ vì mình đi nhà thờ thì là Kitô hữu
là sai. Xét cho cùng, dù có đứng mãi trong gara bạn cũng chẳng thể nào thành
được chiếc ôtô” (Albert Schweitzer).
7. Giáo Hội có thể can dự vào các vấn đề xã hội sâu xa đến mức nào?
Giáo Hội không có
trách nhiệm thay thế cho Nhà nước và công việc chính trị. Đó là lý do tại sao
Giáo Hội không đưa ra các giải pháp chuyên môn cho các vấn đề xã hội riêng
biệt. Bản thân Giáo Hội không làm chính sách, mà đúng hơn là truyền cảm hứng
cho các chính sách theo đúng tinh thần của Tin Mừng. Trong các thông điệp xã
hội của Giáo Hội, các Đức Giáo Hoàng đã khai triển các chủ đề trọng tâm như:
tiền lương, tài sản, và công đoàn, những điều được cho là cần thiết để giúp xây
dựng một xã hội công bằng. Tuy vậy, các Kitô hữu giáo dân là thành phần thích
hợp nhất nên tham gia cách cụ thể vào đời sống chính trị. Hơn nữa, nhiều Kitô
hữu cam kết dấn thân cho lý tưởng Kitô giáo và đưa các sáng kiến thực tiễn vào
các công đoàn, các nhóm, và các hiệp hội để vận động cho các mục đích xã hội cụ
thể, ví dụ, giúp đỡ người tị nạn hay bảo vệ công nhân.
Tâm niệm: “Khi họ đến điệu những người Cộng sản
đi, tôi chẳng nói gì, vì tôi không phải là Cộng sản. Khi họ đến lùng bắt các
đảng viên Dân chủ Xã hội đem đi, tôi chẳng nói gì, vì tôi không phải là người
theo đảng Dân Chủ Xã Hội. Khi họ đến lôi những người hoạt động công đoàn đem
đi, tôi chẳng nói gì, vì tôi không phải là đoàn viên công đoàn. Khi họ đến áp
giải tôi đi, thì chẳng còn ai để có thể phản đối” (Martin Niemöller).
---o0o---
BÀI 10
NGƯỜI TRẺ DẤN THÂN
XÂY DỰNG TỰ DO, CÔNG BẰNG VÀ DÂN CHỦ
1. Tự do có ý nghĩa
gì?
Tự do đặt con người lên
trên loài vật và theo nghĩa nào đó, thậm chí còn làm cho con người giống hình
ảnh Thiên Chúa. Sự tự do đích thực không phải là khả năng có thể chọn bất cứ
cái gì mình muốn, thiện hay ác, mà đúng hơn là khả năng chọn điều tốt. Chỉ có
con người tự do mới có thể chịu trách nhiệm. Là con người tự do khiến cho con
người độc đáo. Trong phạm vi khả năng, người ta có thể tự do lựa chọn nghề
nghiệp và ơn gọi của mình; con người có thể đi đây đi đó, chọn cái này hoặc để
cái kia qua một bên. Đó là quyền cơ bản của con người mà việc thực hiện quyền
này không được hạn chế mà không có lý do hợp lý. Với sự tôn trọng quyền tự do
ngôn luận, con người phải được nói lên tư tưởng tôn giáo, chính trị và văn hóa
của riêng họ cách tự do. Mọi người đều có thể tự do bày tỏ ý kiến của riêng
mình. Để điều này xảy ra được, cần phải có một trật tự pháp lý nhằm bảo đảm sự
tự do của con người và bảo vệ điều này không bị sức ép của người khác lạm dụng
quyền tự do.
Tâm niệm: “Điều lớn lao nhất được ban cho con người là
sự lựa chọn, đấy là tự do” (Soren Kierkegaard).
2. Con người
cần tự do đến mức nào?
Tự do là một giá
trị cơ bản. Được tự do và hành động một cách tự do là quyền căn bản của con
người. Chỉ khi tôi tự do quyết định tôi mới hoàn toàn phải chịu trách nhiệm về
hành vi của mình. Chỉ con người tự do mới có thể hướng đến Thiên Chúa trong yêu
mến và đáp lại với Ngài. Chỉ trong tự do con người mới có thể định hướng phát
triển cuộc sống xã hội và cá nhân của mình. Tự do của con người không biết bao
lần bị giới hạn bởi những hoàn cảnh chính trị, xã hội, tài chính, pháp luật,
hoặc thậm chí cả văn hóa. Đó là sự bất công lớn đã tước đoạt sự tự do của con
người hay hạn chế sự tự do ấy một cách bất công; tình trạng này làm tổn thương
phẩm giá con người và cản trở con người phát triển nhân bản.
Tâm niệm: “Tự do là tự do nói rằng hai cộng hai bằng
bốn. Khi tự do được công nhận, thì mọi thứ khác sẽ có theo” (George
Orwell).
3. Con người tự do
thế nào?
Con người tự do,
nhưng sự tự do của con người có mục đích. Về cơ bản sự tự do tồn tại để ta có
thể làm cho những gì thực sự thiện ích với sự hiểu biết và ý chí tự do của
mình. Về phương diện này, tự do được định hướng theo các luật tự nhiên và trật
tự sáng tạo (= theo cách thế Thiên Chúa sắp đặt cho thế giới theo ý định của
Ngài). Nhờ vào lương tâm của mình người ta có thể biết được sự thật đâu là
thiện, đâu là ác. Đúng hơn, lương tâm giống như tiếng nói của sự thật trong con
người, luật tự nhiên được khắc ghi trong tâm khảm của tất cả mọi người (Rm
2,15). Nhờ vào lý trí, người ta nhận thức được theo lương tâm của mình những
giá trị nào luôn luôn tốt đẹp. Lương tâm có thể biết chắc rằng lừa dối, trộm
cắp, giết người thì không bao giờ là điều thiện. Tuy nhiên, lương tâm cũng có
thể sai lầm. Sự tự do không phải lúc nào cũng ngả về phía những gì là tốt lành
đích thực, nhưng thường vì ích kỷ người ta chỉ muốn những gì có vẻ là tốt đẹp
bên ngoài. Đó là lý do vì sao lúc nào ta cũng phải thao luyện lương tâm của
mình để chính chúng ta được lương tâm hướng đến những giá trị thực sự. Tự do
cũng cần phải được Chúa Kitô giải thoát để có thể thực thi những điều thiện hảo
đích thực.
Tâm niệm: “Lương tâm mà không có Thiên Chúa sẽ thành
một thứ gây kinh hoàng” (FYODOR M. DOSTOEVSKY).
4. Công bằng là gì?
Công bằng là quyết
tâm "trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa và trả cho tha nhân
những gì thuộc về tha nhân" (GLCG 1807).
Tâm niệm: “Sự thật không tuân theo người ta, mà đúng
hơn người ta phải tuân theo sự thật” (MATTHIAS CLAUDIUS, thi sĩ Đức)
5. Có những loại
công bằng nào?
Công bằng phân phối là mối
quan hệ của cộng đồng với các thành viên của nó. Loại công bằng này chia phần
công bằng cho từng người hoặc từng nhóm. Công bằng pháp lý là mối quan hệ của các thành viên với cộng
đồng. Loại công bằng này đòi hỏi mỗi thành viên của cộng đồng đóng góp phần của
mình thích hợp. Công bằng giao hoán là
mối quan hệ giữa những người ngang hàng: người bán hàng sẽ nhận được giá cả hợp
lý cho hàng hóa của họ. Loại công bằng này hướng dẫn việc phân phối hàng hóa
thông qua thị trường thế giới. Tất cả các loại công bằng này tạo nên công bằng xã hội. Đấu tranh cho công bằng xã hội là một phần khai
triển quan trọng về công bằng pháp
lý. Trong khi công bằng pháp lý liên
quan với việc tuân thủ luật pháp và chính phủ thực hành chức năng theo pháp
luật, thì công bằng xã hội đưa
ra các vấn đề xã hội nói chung để được xem xét. Của cải trái đất này phải được
phân chia công bằng. Sự chênh lệch bất công giữa các cá nhân phải được bù đắp
cân xứng. Hơn nữa, phẩm giá của con người phải được tôn trọng. Đặc biệt là
trong các vấn đề kinh tế, con người không thể bị hạ thấp bằng với giá trị hữu
dụng của họ hay bằng với giá trị tài sản của họ. Các chính sách phục vụ cho sự
nghiệp hòa bình phải mang lại công bằng theo nghĩa toàn diện, chính xác là khi
có vấn đề phân phối hàng hóa công bằng (GS 29). Việc phân phối hàng hóa thông
qua thị trường thế giới phải được hướng dẫn bởi điều gọi là công bằng giao hoán: người bán hàng sẽ
nhận được: một mức giá phù hợp cho hàng hóa của họ.
Tâm niệm: “Công bằng là phải trả cho người ta cái của
họ và không tham của người; công bằng là xem nhẹ cái lợi riêng để giữ công bằng
cho hết mọi người” (THÁNH AMBRÔSIÔ MILAN, Tiến Sĩ Hội Thánh).
6. Tại sao chỉ công
bằng thì chưa đủ?
Tình yêu thì nhiều
hơn công bằng, vì tình yêu thì "nhẫn nhục" và "hiền hậu" (1
Cr 13: 4). Ngoài công bằng còn cần có lòng nhân từ để xã hội thực sự có tình
người. Công bằng xã hội chưa
đủ cho cuộc sống chung với nhau, công
bằng pháp lý lại càng ít hơn nữa, vì không có pháp luật nào có thể tạo
ra được thiện chí giữa con người với nhau. Công bằng pháp lý chỉ có thể trừng phạt tội phạm chống lại
phẩm giá con người và giúp giáo dục đức hạnh, nhưng bác ái xã hội phát sinh các sức mạnh sáng tạo vì công
ích, do đó, vì lợi ích toàn diện của hết mọi người. Điều này bao gồm các cấu
trúc công bằng cho phép có chỗ cho lòng thương xót. Tuy nhiên, lòng thương xót
không thể như công bằng được, vì công bằng cần phải có luân lý cơ bản. Lòng
thương xót người ta chỉ cần kêu xin, còn công bằng thì người ta phải đòi hỏi.
Tâm niệm: “Sẽ không có hòa bình nếu không có tự do, sẽ
không có tự do nếu không có công lý, sẽ không có công lý nếu không có tình yêu” (DAN
ASSAN).
7. Giáo Hội nói gì
về vấn đề phân biệt đối xử với người khuyết tật?
Công bằng xã hội
theo học thuyết xã hội của Giáo Hội nhìn nhận, thì chỉ đạt được khi tất cả mọi
người trong xã hội có thể tham gia vào các hoạt động trọng tâm về xã hội, kinh
tế, chính trị, và văn hóa trong cuộc sống. Các hình thức phân biệt đối xử loại
trừ bất cứ người nào tham gia vào các hoạt động này đều là điều bất công. Do
đó, nhiệm vụ của Nhà nước và xã hội cũng phải tạo điều kiện để bảo đảm sự tham
gia của người khuyết tật. Suy cho cùng, phẩm giá của con người không phụ thuộc
vào thân xác và khả năng trí tuệ, và sự tôn trọng đối với một người không thể
được định đoạt dựa trên thành tích hoặc hiệu quả.
8. Nhân quyền là
gì?
Nhân quyền là quyền
khẳng định những điều chúng ta xứng đáng được hưởng, vì bản chất của chúng ta
là con người. Các quyền có thể không có được nếu những người khác không bị ràng
buộc tôn trọng các quyền ấy, và điều ràng buộc họ chính là pháp luật. Vì vậy,
các quyền, các nghĩa vụ và pháp luật có quan hệ với nhau. Theo lời Đức Giáo
Hoàng Gioan Phaolô II nói, Tuyên
Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền (Liên Hiệp Quốc, 1948) là: "một mốc lịch
sử thực sự trên con đường thăng tiến luân lý của nhân loại" (02/10/1979).
Tâm niệm: “Nhân quyền sẽ càng được tôn trọng nhiều
hơn, chứ không ít đi nếu các quyền này có thể được coi là quyền thiêng liêng” (G.K.
CHESTERTON).
9. Cụ thể nhân
quyền là những quyền gì?
Nhân quyền cơ bản
là quyền được sống, quyền này có ngay từ lúc mới thụ thai, vì từ thời điểm đó
sinh linh mới đã ở tình trạng của một người riêng biệt. Một quyền con người
khác là quyền tự do ngôn luận. Kế đến, là quyền kiếm sống cho bản thân và gia
đình bằng công việc của mình mà không ai có thể bị từ chối. Quyền kết hôn và
lập thành một gia đình, quyền có con và đích thân nuôi con cái, cũng là một
quyền của con người. Quyền tự do chọn tôn giáo và thực hành tôn giáo là một
quyền con người rất quan trọng, và không được có bất kỳ sự ép buộc nào trong
các công việc thuộc tôn giáo.
Tâm niệm: “Khởi từ niềm xác tín rằng có một Thiên Chúa
Đấng Tạo Hóa, đã gợi nên ý tưởng về nhân quyền, ý tưởng về sự bình đẳng của mọi
con người trước luật pháp, sự nhìn nhận về tính bất khả xâm phạm nhân phẩm ở
mỗi con người và sự hiểu biết về trách nhiệm của mọi người đối với các hành
động của họ” (ĐGH BÊNÊĐICTÔ XVI).
10. Quyền và nghĩa
vụ liên quan với nhau như thế nào?
Một người hưởng
dùng nhân quyền thì đồng thời cũng phải thừa nhận nghĩa vụ và trách nhiệm đối
với người khác. Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII nêu ý kiến trong thông điệp Hòa Bình
Trên Thế Giới (Pacem in Terris, 30):
"Chỉ biết đòi quyền lợi không, mà quên những nghĩa vụ của mình, hay không
chu toàn những nghĩa vụ đó, thì giống như dùng tay này xây dựng ngôi nhà mà tay
kia lại phá đi."
---o0o---
BÀI 11
NGƯỜI TRẺ TRƯỞNG THÀNH LAO ĐỘNG VÀ NGHỀ NGHIỆP
“Chọn được một nghề mà bạn thích, thì bạn sẽ chẳng còn
cảm thấy phải làm việc vất vả thêm một ngày nào nữa trong cuộc đời
mình” (Tục ngữ châu Á).
1. Lao động có ý
nghĩa gì đối với con người?
Có thể làm việc, có
việc làm và có thể hoàn thành một cái gì đó cho chính mình và cho người khác là
nguồn hạnh phúc lớn lao đối với nhiều người. Bị thất nghiệp, không được ai cần
đến, sẽ khiến người ta cảm thấy bị mất đi phẩm giá. Qua công việc con người
phát triển các thiên hướng, năng khiếu của mình và tham gia vào phát triển kinh
tế, xã hội và văn hóa. Công việc đóng một vai trò quan trọng trong kế hoạch của
Thiên Chúa. Thiên Chúa truyền cho con người thống trị mặt đất (St 1:28) để bảo
vệ và vun trồng trái đất này. Lao động có thể là sự phục vụ có giá trị cho đồng
loại của mình. Thậm chí còn hơn nữa: vun trồng cho trái đất cách bền vững và
sáng tạo để phát triển tiềm năng hơn nữa của nó, làm cho con người nên giống
như Đấng Tạo Hóa. Làm các nhiệm vụ đơn giản cách tốt đẹp, cũng còn kết hiệp con
người với Chúa Giêsu, chính Người là một người lao động.
Tâm niệm: “Ngay từ khởi thủy lao động của
con người là huyền nhiệm sáng tạo” (Thánh GH
Gioan Phaolô II).
2. Lao động có phải
là một nghĩa vụ không?
Thiên Chúa dựng nên
trái đất và để trái đất như quà tặng quý giá cho con người. Như Kinh Thánh mô
tả, lao động của con người là sự đáp lại lòng biết ơn phù hợp với quà tặng này.
Cho nên khi con người theo đuổi nghề nghiệp của mình, ngay khi còn bé đã đi
học, rồi thanh niên lớn lên lại được học tập, đào tạo để chuẩn bị cho công việc
sau này, thì đấy không chỉ là chuyện để có thể kiếm sống cho riêng họ. Qua lao
động, con người có được đặc quyền góp phần vào sự phát triển tích cực của thế
giới. Vì vậy, bằng cách nào đó con người tham gia vào công trình sáng tạo của
Thiên Chúa.
Tâm niệm: “Nếu một người được kêu gọi làm
phu quét đường, thì người ấy nên quét đường y như cách Michelangelo
vẽ tranh, hoặc Beethoven sáng tác nhạc hay Shakespeare làm thơ. Người ấy nên
quét đường cho thật tốt đến độ tất cả các thiên binh trên trời dưới đất phải
dừng lại để nói rằng: "Nơi đây đã từng có một người quét đường vĩ đại,
người ấy đã làm thật tốt công việc của mình" (Martin Luther
King).
“Lao động là một lợi ích của con người – một lợi
ích cho nhân tính của họ - bởi vì, nhờ lao động, không những con người biến đổi
thiên nhiên bằng cách ứng dụng nó vào nhu cầu của riêng họ, mà con người còn
đạt được sự viên mãn với tư cách là con người và hiểu theo ý nghĩa nào đó, “họ
trở nên người hơn” (Thánh GH Gioan Phaolô II)
3. Chúa Giêsu xem
lao động như thế nào?
Chúa Giêsu
"giống chúng ta về mọi phương diện ngoại trừ tội lỗi" (Công đồng
Chalcedon, 451 SCN, trích dẫn Dt 4:15; x. GLCG 467). Chúa Giêsu sống giữa những
ngư phủ, nông dân, thợ thủ công và chính Người đã học nghề và sau đó lao động
bằng nghề thợ mộc trong xưởng của Thánh Giuse cho đến khi Chúa Giêsu ba mươi
tuổi. Trong các dụ ngôn của mình, Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh từ trong cuộc
sống làm ăn buôn bán. Trong bài giảng, Người khen các gia nhân biết đầu tư tài
năng của họ, trong khi Người trách các đầy tớ lười biếng chôn vùi tài năng của
họ (xem Mt 25: 14-30). Ở trường học, người ta được đào tạo chuyên môn, rồi sau
này đi làm việc, và dường như lao động thường là một bổn phận khó nhọc. Chính
trong lao động chúng ta có thể học được điều này ở Chúa Giêsu và cùng với Người
vác thập giá mình mỗi ngày để theo Người, Chúa Giêsu đã vác Thánh giá để cứu
chuộc chúng ta.
Tâm niệm: “Nếu lao động là điều quan trọng nhất, thì
sẽ không có ý nghĩa trong cuộc sống đối với người khuyết tật, chẳng còn giá trị
gì đối với người già, và sẽ chưa có giá trị chi đối với trẻ con” (NORBERT
BLÜM, chính trị gia người Đức).
4. Lao động và sự
nghiệp thành công liên quan đến mục đích thực sự của đời người thế nào?
Lao động là một phần của cuộc sống, nhưng
nó không phải là cuộc sống.
Đây là một điểm khác nhau đặc biệt quan trọng. Ngày nay, nhất là ở các nước
phát triển cao trên thế giới, có rất nhiều người dường như chỉ sống cho công
việc của họ. Đối với họ, làm việc giống như cơn nghiện, do đó những người này
được gọi là người nghiện việc. Chúa Giêsu cảnh tỉnh mọi người đừng để cho chính
mình bị nô lệ cho công việc như thế. Mục đích của đời người không phải là để tích
lũy tiền bạc hoặc kiếm danh tiếng, nhưng để đạt được cuộc sống vĩnh cửu với
Thiên Chúa bằng lời cầu nguyện, bằng việc thờ phượng, và hành động yêu thương
tha nhân. Chừng nào lao động của con người còn phụ thuộc vào mục đích này, thì
nó là một phần của đời sống Kitô hữu. Nhưng khi lao động trở nên cứu cánh của
chính nó và làm lu mờ mục đích hiện hữu đích thật của con người, thì tầm quan
trọng của lao động bị phóng đại quá mức. Tuy nhiên, nhiều người phải làm dăm ba
việc và chịu khó làm để nuôi sống gia đình họ. Như vậy, là họ đang làm để phục
vụ cho gia đình, nên công việc họ làm được Thiên Chúa phúc phúc.
Tâm niệm: “Điều làm ta mệt mỏi là việc ta bỏ bê, chứ
không phải việc ta làm” (MARIE VON EBNER- ESCHENBACH (1830-1916).
5. Hoạt động
kinh tế và đạo đức có liên quan với nhau như thế nào?
Kinh tế hoạt động
theo các qui luật riêng của nó. Kinh tế thị trường là một hình thái kinh tế, mà
ngày càng được chấp nhận trên toàn thế giới. Kinh tế thị trường giống như trong
“thương trường” thực sự: nhà cung cấp và người tiêu dùng gặp nhau, đàm phán tự
do với nhau về giá cả, số lượng và chất lượng của sản phẩm. Kinh tế thị trường
đã chứng minh là rất có hiệu quả, nhưng về mặt đạo đức, nó chỉ được chấp nhận
khi là một nền kinh tế thị trường xã hội đi cùng với một Nhà nước lập hiến. Cho
nên, trước tiên chính phủ phải bảo đảm ban hành các luật lệ rõ ràng, thứ hai,
các điều khoản luật cũng phải dự trù đáp ứng được quyền lợi cho những
người không có được gì để trao đổi ở thị trường đó, ví dụ, do bị thất nghiệp
hoặc không có tiền. Hơn nữa, người ta còn có những trải nghiệm không được đối
xử công bằng trong cơ chế thị trường: ví dụ như, gặp phải hoạn nạn, bệnh tật và
khuyết tật. Thực tế là kinh tế hoạt động theo qui luật riêng của nó không có
nghĩa là các qui luật thị trường không cần tuân theo các giới răn và lề luật
của Thiên Chúa. Đạo đức là thành phần thiết yếu cho một hoạt động kinh tế được
lành mạnh. Kinh doanh trái đạo đức về lâu dài cuối cùng cũng sẽ dẫn đến bất ổn
về kinh tế. Đồng thời khi doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả do không tiết
kiệm, ví dụ như lãng phí tài nguyên thì cũng đúng là trái đạo đức.
Tâm niệm: “Chuẩn mực đạo đức “cho đi” là
có thể bỏ qua các qui luật kinh tế không phải là đạo đức mà là kiểu chủ nghĩa
đạo đức vô luân” (ĐGH Bênêđictô).
6. Phải chăng
giàu có là "trái đạo đức"?
Không phải vậy.
Giàu có thịnh vượng hơn lên có thể trở thành một mục đích đạo đức cao quý.
Nhưng về phương diện đạo đức, mục đích này chỉ đạt được khi theo đuổi phù
hợp sự phát triển toàn cầu của hết
mọi con người trong tình liên đới; chứ không chỉ là lợi nhuận của một vài
cá nhân nhờ vào tình trạng thịnh vượng tăng thêm ấy. Sự phát triển có nghĩa là
sự phát triển toàn diện của con người trọn vẹn. Điều này bao gồm đức tin và gia
đình, giáo dục và y tế, cùng nhiều giá trị khác. Không phải lúc nào cũng chỉ là
vấn đề được hưởng thụ nhiều hơn. Theo một cách nào đó, “chủ nghĩa hưởng thụ”
còn khiến cho người ta ngay cả còn nghèo nàn đi hơn.
Tâm niệm: “Chừng nào mình còn “có” thì chúng ta phải
cho đi, vì chúng ta cũng có một Đấng ban phát rất nhân từ” (THÁNH
BRIDGET THỤY ĐIỂN, nhà thần bí
và đấng đồng bảo trợ châu Âu).
7. Làm trong
doanh nghiệp có thể là một ơn gọi không?
Có. Làm trong ngành
thương mại và kinh doanh có thể là một ơn gọi đích thực từ Thiên Chúa: những
người có trách nhiệm về lĩnh vực chuyên môn mà đặt mình vào phục vụ đồng loại
và phục vụ xã hội là điều hạnh phúc cho tất cả mọi người. Thiên Chúa đã giao
phó trái đất cho chúng ta: “hãy cày cấy và canh giữ đất đai”. Trong công việc,
chúng ta có thể vâng theo ý muốn của Thiên Chúa và trong lĩnh vực nhỏ bé nào
đó, góp phần vào việc hoàn thiện công trình sáng tạo (St 2:15ff). Nếu hành động
cách ngay thẳng và yêu thương, chúng ta sẽ sử dụng được những món quà tốt đẹp
của trái đất và tài năng riêng của mình cho lợi ích của đồng loại đã được Thiên
Chúa giao phó cho chúng ta chăm sóc. (Mt 25: 14-30; Lc 19: 12-27).
Tâm niệm: “Cũng như giới răn “Ngươi không được giết
người” đặt ra một giới hạn rõ ràng để bảo vệ giá trị của sự sống con người,
ngày nay chúng ta cũng phải nói “Ngươi không được …” với một nền kinh tế loại
trừ và bất bình đẳng. Một nền kinh tế như thế cũng giết chết” (ĐGH
Phanxicô, EG 53).
8. Kinh Thánh
nói gì về giàu nghèo?
Bất cứ ai theo Chúa
Giêsu không bao giờ được quên trước tiên và quan trọng nhất là chúng ta chỉ nên
lo “tích của trên thiên đàng” (Lc 12:21). Làm giàu của cải vật chất không phải
là mục tiêu chủ yếu của cuộc đời Kitô hữu. Và giàu có vật chất không hẳn là
hồng ân đặc biệt của Thiên Chúa. Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện: “Xin Cha
cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày” (Mt 6:11). Với lời cầu xin ấy,
chúng ta xin Chúa Cha ban tất cả những gì chúng ta cần cho cuộc sống trần thế
của mình. Chúng ta không cố tìm kiếm của cải xa hoa, nhưng để có được của cải
cần thiết cho một cuộc sống hạnh phúc trong sự sung túc vừa phải, để nuôi dưỡng
gia đình mình, để làm việc bác ái, và tham gia vào sự phát triển văn hóa và
giáo dục, cũng như phát triển thêm nữa.
Tâm niệm: “Nếu bạn nghèo, bạn cần
người có thể cho bạn; nếu bạn giàu, bạn cần người mình có thể cho họ”
(LUDWIG BÖRNE, nhà báo Đức).
---o0o---
BÀI 12
NGƯỜI TRẺ CHUNG TAY XÂY DỰNG HÒA BÌNH
1. Hòa bình là
gì?
Nhiều người nói
rằng hòa bình là không có chiến tranh; những người khác cho rằng hòa bình là
một trạng thái cân bằng ổn định giữa các thế lực thù địch. Tuy nhiên, các định
nghĩa này là không đủ. Hòa bình là sự yên bình có trật tự, sâu xa hơn là hạnh
phúc trong trật tự thiện hảo của Thiên Chúa. Loại hòa bình này là mục đích của
chúng ta. Chúng ta thấy được mình trên con đường hòa bình khi chúng ta làm việc
trong công bình và yêu thương tiến đến một thế giới trong trật tự theo ý muốn
của Thiên Chúa. Hơn nữa, chúng ta cũng thấy được mình bên cạnh tất cả những
người tìm kiếm chân lý cách ngay thẳng và chân thành, họ chăm sóc cho hạnh phúc
và sự an toàn của đồng loại trong công lý, và đem tình thương của họ đến với
tha nhân mà không nghĩ đến lợi ích bản thân. Đồng thời, chúng ta làm việc vì
Thiên Chúa hằng hữu khi chúng ta cổ võ các quyền của tất cả mọi người và bảo vệ
họ bằng mọi cách.
Tâm niệm: “Người trẻ là nguồn hy vọng cho tương lai.
Sứ mệnh lịch sử của các con là xây dựng một nền văn minh tình yêu, tình huynh
đệ và tình liên đới” (Thánh GH Gioan Phaolô II, Ngày Giới Trẻ Thế Giới
1995 tại Manila).
2. Tại sao cần
Thiên Chúa, nếu muốn hòa bình?
Trước tiên hòa
bình, bình an là một thuộc tính của
Thiên Chúa trước khi hòa bình là một nhiệm vụ đối với con người chúng
ta. Bất cứ ai cố gắng mang lại hòa bình mà không có Thiên Chúa là họ quên rằng
chúng ta không còn sống ở thiên đường hạ giới mà chúng ta là những tội nhân.
Chúng ta thiếu hòa bình trên trái đất là một dấu chỉ cho thấy sự hiệp nhất giữa
Thiên Chúa và nhân loại đã bị đứt đoạn. Đặc điểm của lịch sử nhân loại là bạo
lực, chia rẽ, và giết chóc đổ máu. Mọi người đều khao khát bình an mà họ đã
đánh mất vì tội lỗi, vì vậy, họ cũng đang âm thầm khao khát Thiên Chúa.
Tâm niệm: “Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình
an của Chúa. Để con đem yêu thương vào nơi oán thù; để con đem thứ tha vào nơi
lăng nhục; để con đem tin kính vào nơi nghi nan; chiếu trông cậy vào nơi thất
vọng; để con rọi ánh sáng vào nơi tối tăm; đem niềm vui đến chốn u sầu” (Lời
kinh in trên thiệp giấy năm 1913).
3. Tại sao các
Kitô hữu cần phải loan truyền hòa bình?
Chúa Giêsu Kitô đã
thiết lập hòa bình giữa Trời và Đất, và mở ra tất cả các cánh cửa cho cuộc sống
hòa giải và niềm vui nội tâm. Nhưng sự bình an của Người không tự lan tỏa. Con
người có tự do tin và chấp nhận lời kêu mời hòa giải của Thiên Chúa hay hoài
nghi từ chối lời mời gọi ấy. Để đưa ra quyết định của mình, trước tiên mọi
người phải được nghe lời mời gọi có Thiên Chúa sẽ có hòa bình, cả trong đời
sống cá nhân cũng như giữa các nhóm hoặc các quốc gia thù địch với nhau. Họ có
thể biết được điều này nếu họ gặp được những người đã được hòa giải: những
người không đánh lại, không trả thù, không sử dụng bạo lực. Chia sẻ Tin
Mừng bình an bằng lời nói và hành động để tạo ra sự khởi đầu và ngày càng gia
tăng hòa bình đích thực.
Tâm niệm: “Trước những nguy hiểm mà nhân loại sống
trong thời đại của chúng ta, bổn phận của tất cả những người Công giáo là gia
tăng sự loan báo và làm nhân chứng cho “Tin
Mừng Hòa Bình” trên khắp thế giới và chứng tỏ rằng sự nhìn nhận
chân lý trọn vẹn của Thiên Chúa là điều kiện tiên quyết và thiết yếu để
củng cố chân lý của hòa bình” (ĐGH Bênêđictô XVI, Sứ điệp Ngày Thế
Giới Hòa Bình 2006).
4. Tại sao
Kitô hữu phải dấn thân xã hội?
“Thiên Chúa là tình
yêu” (1 Ga 4:8), và “Bác ái là tâm điểm trong giáo huấn của Giáo Hội về xã hội”
(ĐGH Bênêđictô XVI, CiV 2). Tuy nhiên, là Kitô hữu còn có nghĩa nhiều hơn là
chấp nhận các xác tín và các giá trị đặc biệt. Điểm cốt lõi của Kitô hữu là sự
gặp gỡ con người của Chúa Kitô. Tìm Chúa trong “người bé nhỏ nhất” trong anh em
chúng ta (Mt 25:40), theo Chúa đích thực là noi gương Chúa Giêsu (Thomas à
Kempis) là con đường hoàn thiện nhất của Kitô hữu. Chúa Giêsu tôn trọng tự do
và phẩm giá của kẻ tội lỗi và những người bị gạt ra ngoài lề xã hội. Chính Chúa
Giêsu là → Chương trình hoạt động xã hội của Giáo Hội. Giáo huấn xã hội Công
giáo chỉ là sự phát triển có hệ thống về những gì đã hiện hữu trong sự viên mãn
nơi Chúa Giêsu Kitô: Con người đã được tái khám phá trong phẩm giá độc đáo của
mình (nhân vị), con người đã được giải thoát khỏi lòng tham và tội lỗi và tìm
kiếm phục vụ tha nhân (tình liên đới), chú tâm đến (công ích) “phúc lợi cho
thành” (Gr 29: 7), cũng như một xã hội trong đó các nhóm và các cộng đồng có
thể tự do phát triển trong hòa bình và công lý (tính bổ trợ) – đó là tầm nhìn
cao quý.
Tâm niệm: “Tôi không thể nghĩ đến yêu thương mà không
cần phải hòa đồng, và trên hết là chia sẻ tất cả những nỗi đau đớn và khó khăn,
tất cả những nỗi khổ cực của cuộc sống. Sống cách thoải mái và giàu sang nhàn
hạ nhờ vào của cải của mình khi người anh chị em nghèo khó, đau khổ, và sống
khổ sở vì lao động khó nhọc – Lạy Chúa, con không thể, con không thể yêu thương
như thế” (Charles de Foucauld).
5. Đâu là bước
đầu tiên dấn thân xã hội được đặt trên nền tảng đức tin?
Không gì tạo động
lực sâu sắc hơn tình yêu. Người có lòng mến thì làm được những công việc lớn
lao và bền vững. Vì vậy, bước đầu tiên bao giờ cũng là có được tương quan cá
nhân sâu đậm với Chúa Giêsu (“Những gì Trái Tim Chúa Giêsu muốn, tôi sẽ làm”,
Charles de Foucauld), để phát triển một tình yêu sâu xa hơn bao giờ hết với
Giáo Hội, và dẫn tới một cuộc sống dấn thân xã hội. Điều này sẽ thúc đẩy Kitô
hữu không bỏ qua ngay cả những “người nhỏ bé nhất” mà Chúa Giêsu rất coi trọng.
Mối tương quan này tạo động lực cho Kitô hữu làm chứng cho đức tin của mình
ngay cả trong môi trường thù địch. Điều đó thúc đẩy đi đến lối sống được biến
đổi thành lòng mến khách, hòa giải và hòa bình. Nếu cần, mối tương quan này
cũng thúc đẩy Kitô hữu thậm chí hy sinh mạng sống của mình khi cần vì chính
nghĩa của sự thật và công lý.
Tâm niệm: “Tình yêu là sức mạnh lớn nhất để biến đổi
thực tại vì nó kéo đổ các bức tường của ích kỷ và lấp đầy những hố ngăn cách
chúng ta” (ĐGH Phanxicô).
6. Những điều
đặc biệt nào Kitô hữu phải cống hiến cho đồng loại của mình?
Không phải những
điều đặc biệt nào ngoài một người
đặc biệt: Chúa Giêsu Kitô. Kitô hữu đấu tranh cho một thế giới nhân đạo hơn
giữa đói nghèo và đau khổ mà họ không nhất thiết phải có những chương trình xã
hội tốt hơn hoặc các chính sách tài chính tốt hơn; thường thì thậm chí họ không
có chủ nghĩa lý tưởng nào quan trọng hơn trong ba lô của mình. Cơ bản họ chỉ có
một điều cần loan truyền: một Thiên Chúa đã làm người. Không triết lý nào và
không tôn giáo nào khác biết được nhiều đến thế về Đấng Toàn Năng. Chúa Giêsu
Kitô, Ngôi Hai Thiên Chúa biết và hiểu chúng ta nơi nhân tính của chúng ta.
Nhiều người ngày nay cô đơn và cảm thấy bị bỏ rơi trong một xã hội vô danh.
Ngay cả Internet với tất cả các loại mạng xã hội vẫn không có thể thay thế được
sự gặp gỡ giữa các cá nhân với nhau. Chúng ta vẫn khao khát được chấp nhận là
những con người với những ưu điểm và khuyết điểm của mình. Lời công bố của Kitô
giáo diễn tả: Mỗi cá nhân được chính Thiên Chúa yêu thương, và mỗi cá nhân có
thể gặp gỡ tình yêu này nhờ vào mối tương quan với Chúa Giêsu Kitô. Đó là một
thông điệp tuyệt vời, đặc biệt đối với những người đang trải qua khủng hoảng và
tự hỏi mình những câu hỏi về ý nghĩa của cuộc sống và tương lai.
Tâm niệm: “Vào năm 1973, chúng tôi quyết định mỗi ngày
chầu Thánh Thể một giờ. Chúng tôi rất bận rộn. Các nhà chăm sóc người đau ốm và
những người khốn khó của chúng tôi chỗ nào cũng có người đang hấp hối. Kể từ
khi chúng tôi bắt đầu chầu Thánh Thể hằng ngày, tình yêu của chúng tôi với Chúa
Giêsu trở nên sâu đậm hơn, tình yêu chúng tôi dành cho nhau thắm thiết hơn,
tình yêu chúng tôi dành cho người nghèo nhiệt thành hơn, và số ơn gọi tăng gấp
đôi” (T. Têrêsa Calcutta).
Ban Mục vụ Giới trẻ
Giáo phận
Nguồn: gphaiphong.org