Giáo phận Thanh Hóa: đến với người
H’mông
GP THANH HÓA – Ngày 9-9-2010, những linh mục khóa VII giáo phận
Thanh Hóa vừa chịu chức hoặc đã chịu chức được một năm, để ghi dấu ấn trong sứ
vụ của mình, thay vì tổ chức đi chơi, đã quyết định lên thăm bà con dân tộc
thiểu số H’mông sống trong các vùng núi cao thuộc huyện Mường Lát, Thanh Hóa.
Đoàn rời Tòa giám mục Thanh Hóa vào lúc 3g00 sáng.
Mường Lát là một huyện miền núi phía Tây Bắc của tỉnh Thanh Hóa.
Phía Bắc giáp huyện Mộc Châu tỉnh Sơn La và Lào. Phía Tây và
Sau khi ngồi xe gần 10 giờ đồng hồ, chúng tôi đến chân núi và bắt
đầu chuyển qua xe máy để đi vào bản. Dẫn đầu nhóm là cha Phaolô Đinh Tiến Thảo
và thầy Công Hai – những người đã dấn thân cho công tác mục vụ với người thiểu
số hơn một năm qua. Trong suốt cả chuyến đi, chúng tôi được cha Thảo và thầy
Hai khuyến khích rất nhiều và bày cho những phong tục tập quán của người bản
địa cũng như một số câu chào hỏi bằng tiếng H’mông. Nhóm có 12 người, và mỗi
người được thanh niên bản địa đèo bằng xe máy.
“Hãy đến mà xem”, đó là một cảm nghiệm mà có thực tế ngồi xe máy
hay leo núi mới diễn tả được những hiểm nguy mà người đi đối diện. Lối đi chỉ
là một con đường nhỏ, khúc khuỷu, trơn trượt, dốc đá lởm chởm, một bên là vực
sâu một bên là vách núi dựng đứng. Quá trình đi vào bản gặp không ít những khó
khăn và gian nan. Có những đoạn vượt đèo và cua tay áo, nếu xe quá đà một chút
thì sẽ xuống vực sâu, hoặc có những đoạn đổ dốc mà nếu xe mất phanh thì đi luôn
xuống chân núi. Cứ thế, đoàn xe lầm lũi tiến vào bản trong sự lo ngại và thoàng
chút sợ sệt của một số người trong đoàn.
Qua năm ngọn núi, cuối cùng chúng tôi cũng đến được bản Papua –
một bản có hơn năm trăm nhân khẩu theo Công giáo, qua tìm hiểu chúng tôi được
biết những người H’mông ở đây được các nhà thừa sai truyền giáo và gây dựng
thành các cộng đoàn, nhưng do thời thế, nhiều bản trong số họ đã bỏ núi rừng di
cư qua các vùng khác hoặc bị xóa hết dấu tích công giáo do một khoảng thời gian
dài không có linh mục coi sóc. Giáo phận Thanh Hóa trước đây có 6 giáo xứ tại
các vùng núi này, nhưng cũng đã bị “xóa sổ” theo những thăng trầm của lịch sử.
Vào đến bản, chúng tôi được bà con đón chào cách nồng nhiệt bằng
những tràng pháo tay và cái bắt tay nắm chặt, bằng ánh mắt ngơ ngác của các em nhỏ,
bằng những câu chào lơ lớ tiếng kinh…
Sau khi nghỉ ngơi và phát một số bánh kẹo cho các em nhỏ, chúng
tôi bắt đầu dâng lễ tạ ơn cùng bà con ở đây – một thánh lễ được dâng giữa trời
đất núi rừng Tây Bắc; một thánh lễ được làm bên vách nhà, bàn thờ được làm bằng
gốc cây rừng, khăn bàn thờ là một tấm vải đã sờn cũ; một thánh lễ lộ thiên vì ở
đây họ quá nghèo không có điều kiện để làm một mái nhà hội chung; một thánh lễ
tuy là “người một nhà” nhưng phải có người phiên dịch từ tiếng Kinh qua tiếng
H’mông; một thánh lễ mà những người giáo dân ngồi chung với linh mục và các em
nhỏ trần truồng không quần áo nhìn các cha bằng ánh mắt ngơ ngác vì đây là lần
đầu tiên trong đời họ chúng kiến một thánh lễ có 9 cha cùng đồng tế; một thánh
lễ mà cả linh mục lần giáo dân đều rưng rưng lệ theo những cảm nhận riêng của
mỗi người, giáo dân rưng lệ mừng vì họ nhận được sự quan tâm săn sóc của quý
cha, nhận được tình mục tử mà bấy lâu họ hằng khao khát, các cha thì rưng lệ vì
cảm thương những hoàn cảnh vất vả và điều kiện sống quá khó khăn, quá nghèo,
nhưng họ vẫn một mực tin vào Chúa, trung thành với đức tin Công giáo dù nhiều
bản làng trong số họ đã theo các anh em Tin Lành hoặc bỏ đạo.
Sau thánh lễ chúng tôi chụp hình lưu niệm cùng mọi người ở đây và
tập trung phát quà cho bà con dân bản, một số cha đi thăm các gia đình để hiểu
thêm hoàn cảnh sống và những tập tục sinh hoạt của người H’mông.
Tối đến chúng tôi được ưu tiên ngủ trong một căn nhà “sang trọng”
nhất bản với những manh chiếu trải trên nền nhà. Trong đêm, mọi người ai cũng
trằn trọc khó ngủ dù đi một quãng đường khá dài, một phần vì ở đây nhiều muỗi,
một phần xúc động về hoàn cảnh sống thiều thốn của người dân nơi đây.
Sáng hôm sau, mới tinh mơ mọi người đã tập trung lại trước mảnh
sân hôm qua để đọc kinh và chờ các cha ra dâng lễ. Anh em chúng tôi lại có dịp
cùng bà con dâng thánh lễ thứ hai giữa núi rừng với nhiều kỷ niệm khó phai
trong bước đường phục vụ. Sau thánh lễ chúng tôi đi thăm một số gia đình và vội
vàng xuống núi để trở về giáo xứ của mình trước khi trời tối, vì đường đi
thường xuyên bị sạt lở và có thể nằm lại rừng bất cứ lúc nào nếu gặp trời mưa.
Trên đường trở về mỗi người mang theo một “hành trang” là những dự
tính, những ước nguyện, những suy tư và cả những thao thức: Làm sao để thường
xuyên đến được với họ, làm sao để họ bớt khổ, làm sao để có điều kiện làm cho
họ một căn nhà nguyện nhỏ bằng tranh tre lứa lá, làm sao giúp các em nhỏ được
đến trường... làm sao???
Tất cả đều phó thác cho Chúa, tất cả đều phó thác vào sự sẻ chia của những người có điều kiện, tất cả phó thác vào lòng hảo tâm.
(Nguồn: gpthanhhoa.org)