Logo và khẩu hiệu của chuyến viếng thăm đảo Sýp
và Hy Lạp
GIÁO HỘI CÔNG GIÁO TẠI SÝP VÀ HY LẠP
TRƯỚC CHUYẾN VIẾNG THĂM CỦA ĐTC
Hồng Thủy
Vatican News (30.11.2021) - Từ ngày 2/12 Đức
Thánh Cha sẽ bắt đầu chuyến tông du thứ 35 tại nước ngoài, với cuộc viếng thăm
thủ đô Nicosia của Cộng hòa Sýp hai ngày, từ ngày 2-4/12/2021, và thăm thủ đô
Athens và đảo Lesbos của Hy Lạp, từ ngày 4-6/12/2021. Hai nước này có mối quan
hệ lịch sử, văn hóa và tôn giáo chặt chẽ từ thời cổ đại. Bên cạnh sắc tộc, họ
có chung di sản, ngôn ngữ và tôn giáo, mặc dù qua nhiều thế kỷ, Sýp gần với
Trung Đông hơn do vị trí địa lý và sự hiện diện đáng kể của các nhóm thiểu số
từ khu vực này.
Kitô giáo ở Sýp và Hy Lạp bắt
nguồn từ thời các thánh Tông đồ, cụ thể là với thánh Phaolô, người đã giảng đạo
ở Hy Lạp, nhưng cũng loan báo Tin Mừng ở Sýp cùng với thánh Barnaba, người được
coi là vị sáng lập Giáo hội Sýp. Hơn nữa, cả hai quốc gia đều theo truyền thống
Chính Thống giáo, với Chính Thống giáo chiếm đa số.
Công giáo tại Cộng hòa Sýp
Tại Cộng hòa Sýp, quốc gia có
diện tích 9.251 km2, tín hữu Công giáo chiếm 4,75% trong 850.000 dân, tương
đương với 38.000, và phần lớn thuộc nghi lễ Latinh. Phần lớn trong số họ là hậu
duệ của các nhà Thập tự chinh, những người đã định cư ở đó từ thế kỷ XII, sau
cuộc Thập tự chinh lần thứ ba (1191) và sự sụp đổ của Giêrusalem (1187).
Cộng đoàn Công giáo Latinh tại Sýp
Các tín hữu Công giáo Latinh phát
triển mạnh cho đến khi đảo Sýp bị Thổ Nhĩ Kỳ chinh phục vào năm 1570-1573, khi
hàng ngàn người bị giết, các nhà thờ bị biến thành đền thờ Hồi giáo, và Giáo
hội Công giáo Latinh bị giải thể. Tuy nhiên, họ sống sót qua sự cai trị của đế
chế Ottoman, một phần lớn là nhờ Dòng Phanxicô, đã có mặt trên đảo từ khi thành
lập vào thế kỷ XIII và vẫn đóng vai trò trung tâm trong Giáo hội địa phương
ngày nay.
Chính sách khoan dung dưới sự cai
trị sau đó của người Anh (1878-1960) đã củng cố cộng đồng Công giáo Latinh, cho
phép họ hội nhập hoàn toàn vào xã hội Sýp. Quá trình giải phóng đã tiến triển
hơn nữa kể từ khi đảo này độc lập vào năm 1960, khi Hiến pháp mới chính thức
nhìn nhận Giáo hội Công giáo và ở cấp độ chính trị, dành một ghế trong Quốc hội
cho mỗi cộng đồng trong ba cộng đồng Công giáo hiện diện trên đảo.
Dù cuộc xâm lược của Thổ Nhĩ Kỳ
vào năm 1974 khiến nhiều gia đình Công giáo phải rời bỏ miền Bắc, cộng đồng
Công giáo Latinh ở Sýp vẫn tiếp tục phát triển mạnh, đóng góp tích cực vào sự
phát triển của đất nước, đặc biệt là trong lĩnh vực giáo dục. Cộng đồng Công
giáo Latinh cũng rất tích cực trong lĩnh vực xã hội, thông qua các tổ chức từ
thiện giúp đỡ những người nghèo và dễ bị tổn thương nhất, người tị nạn và người
lao động nước ngoài.
Giáo hội Công giáo Latinh ở Sýp
thuộc Quyền tài phán của Tòa Thượng phụ Latinh của Giêrusalem và được giao cho
một Đại diện của Tòa Thượng phụ Latinh, hiện nay là cha Jerzy Kraj, dòng
Phanxicô. Tòa Thượng Phụ phụ trách giáo xứ thánh Phaolô ở Paphos, trong khi, ba
giáo xứ còn lại do dòng Phanxicô quản lý.
Cộng đoàn Công giáo Maronite tại Sýp
Cộng đồng Công giáo lớn thứ hai ở
Sýp là cộng đồng Công giáo nghi lễ Maronite (đọc: Ma-rô-nít), hiện chiếm 1,5%
dân số. Họ đến đảo Sýp trong nhiều đợt, bắt đầu từ thế kỷ thứ VIII và những đợt
mới vào cuối thế kỷ XIII, và vào thời đó, họ trở thành cộng đồng Kitô giáo
phương Đông lớn nhất sau cộng đồng Hy Lạp. Các con số đã giảm đáng kể sau khi
đế quốc Ottoman thống trị đảo Sýp vào thế kỷ XVI và các cuộc đàn áp sau đó. Họ
bắt đầu phát triển trở lại dưới sự cai trị của Anh và sau khi độc lập, với
nhiều người Libăng đến sau cuộc chiến ở Libăng vào năm 1975.
Tuy nhiên, sau khi đảo Sýp bị
phân chia vào năm 1974, số tín hữu Maronite đã giảm đáng kể ở miền Bắc. Nhìn
chung, tín hữu Công giáo nghi lễ Maronite lên tới khoảng 13.000 người vào năm
2019. Họ tập trung phần lớn ở Nicosia và thuộc quyền của Tổng Giáo phận đảo
Sýp, hiện do Đức Tổng Giám mục Selim Jean Sfeir cai quản.
Về đặc điểm văn hóa, tín hữu Công
giáo Maronite của Sýp chủ yếu là người nói tiếng Hy Lạp bản địa. Tuy nhiên,
hiện tại, họ cũng nói các ngôn ngữ khác như trong suốt lịch sử của họ, bao gồm
tiếng Syriac, tiếng Ả Rập, tiếng Pháp và tiếng Ý.
Cộng đồng Công giáo Armeni tại Sýp
Cộng đồng Công giáo nhỏ nhất ở
đảo Sýp là cộng đồng Công giáo Armeni. Họ hiện diện tại đây từ thế kỷ VI khi
các tù nhân Armeni được chuyển đến đảo. Sau đó, nhiều Kitô hữu Armeni, chủ yếu
thuộc Giáo hội Chính Thống tông truyền Armeni, đến đảo Sýp, đặc biệt vào thế kỷ
XIII.
Tín hữu Công giáo Armeni cũng
được hưởng lợi dưới sự thống trị của Anh. Nhiều người Armeni đến Sýp trong các cuộc
thảm sát của Thổ Nhĩ Kỳ trong Thế chiến thứ nhất, sự phân chia của Palestine
vào năm 1948, và cuộc chiến ở Libăng (1975-1990). Ngày nay có khoảng
3.000-4.000 tín hữu Công giáo Armeni sống ở Sýp, phần lớn ở thủ đô Nicosia.
Tương quan với các Giáo hội Kitô khác
Các Giáo hội Kitô lớn ở Sýp, bao
gồm cả Tin lành và Anh giáo, hợp tác chặt chẽ với nhau và có mối quan hệ đại
kết tốt đẹp. Trong 15 năm qua, Tòa Thánh và phần lớn Giáo hội Chính Thống đã
củng cố mối quan hệ huynh đệ, được sự hỗ trợ tích cực của Giáo chủ Chrysostomos
II, Tổng Giám mục của New Giustiniana và Toàn đảo Sýp.
Vào ngày 16/6/2007, Giáo chủ
Chính Thống giáo đã ký Tuyên bố chung với Đức Biển Đức XVI nhân chuyến thăm
Vatican. Sau đó, Đức Biển Đức XVI đã gặp Đức Tổng Giám mục Chrysostomos II trong
hai lần nữa: vào ngày 5/6/2010, trong chuyến viếng thăm đảo Sýp, khi ngài trao
cho Giáo chủ Chính Thống giáo một bản tài liệu làm việc của Thượng Hội đồng
Giám mục Đặc biệt về Trung Đông, được tổ chức vào tháng 10 năm đó; và lần thứ
hai vào ngày 28/3/2011, tại Vatican.
Công giáo tại Hy Lạp
Tại Hy Lạp, quốc gia có diện tích
131.957 km2, Giáo hội Chính Thống đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử
nước này. Các hiến pháp của Hy Lạp qua các thời kỳ và cả hiến pháp dân chủ mới
năm 1974 đã khẳng định sự trỗi vượt của Chính Thống giáo. Hiến pháp năm 1974
xác định Chính Thống là tôn giáo “thịnh hành” trong nước, mặc dù nó công nhận
quyền tự do tôn giáo cho tất cả các tín ngưỡng. Ngày nay, 90% người Hy Lạp vẫn
xác định là Chính thống giáo Hy Lạp, mặc dù không phải tất cả đều là tín hữu
thực hành.
Các tôn giáo thiểu số bao gồm
Công giáo, Tin lành, Anh giáo, cũng như Hồi giáo (1%) tập trung ở biên giới với
Thổ Nhĩ Kỳ, và một cộng đồng nhỏ Do Thái.
Đa số là người nhập cư
Theo số liệu mới nhất của
Vatican, người Công giáo, chủ yếu theo nghi lễ Latinh, chiếm 1,2% dân số (tức
là 133.000 trong số khoảng 11 triệu dân), hầu hết không phải là người Hy Lạp.
Tuy nhiên, số liệu địa phương cho thấy con số cao hơn, bao gồm vài ngàn lao
động nhập cư có giấy phép cư trú tạm thời, người tị nạn và xin tị nạn. Năm
2018, Giáo hội Công giáo Hy Lạp ước tính có tới 400.000 người Công giáo sinh
sống tại nước này.
Các nhóm người nước ngoài đông
nhất là công dân Ba Lan (40.000) và Philippines (45.000). Ngoài ra, số người
Công giáo từ Trung Đông đã tăng lên đáng kể do chiến tranh, cụ thể là từ Iraq
và Syria. Các nhóm sắc tộc khác bao gồm người Albania, Bulgaria, Ucraina và
Armenia. Hơn nữa, việc nhập cư đã gia tăng số tín hữu Công giáo theo nghi lễ
Đông Phương.
Các cộng đồng Công giáo quan trọng
nằm ở Quần đảo Cyclades (đặc biệt là ở Syros và Tinos) và cả ở Corfu, Patras,
Giannitsa, Thessalonica, Kavala, Volos và ở một số thành phố khác trong đất
liền của Hy Lạp.
Tích cực trong hoạt động mục vụ và xã hội
Giáo hội địa phương tích cực
trong hoạt động mục vụ và xã hội. Tuy nhiên, do cộng đồng Công giáo rải rác ở
nhiều nơi và thành phần không đồng nhất của nó, trong bối cảnh các ơn gọi địa
phương ngày càng giảm, đã làm cho công việc này trở nên khó khăn hơn.
Việc di dân chắc chắn đã làm
phong phú thêm cho Giáo hội địa phương, nhưng cũng đòi hỏi nguồn nhân lực và
tài chính tăng lên để đáp ứng nhu cầu mục vụ và xã hội ngày càng tăng, cũng như
để hòa nhập những người mới đến trong các cộng đồng giáo xứ địa phương.
Cuộc khủng hoảng kinh tế đang
diễn ra từ năm 2009 đã khiến những khó khăn này càng thêm trầm trọng. Việc châu
Âu thắt chặt tài chính đối với Hy Lạp cũng đã gây căng thẳng cho tài chính của
các giáo phận, giáo xứ và tổ chức từ thiện Công giáo tham gia vào việc hỗ trợ
các gia đình Hy Lạp nghèo khó, cũng như hàng ngàn người nhập cư và tị nạn chạy
trốn chiến tranh và đói nghèo.
Với việc chi phí gia tăng và số
tiền dâng cúng vào Chúa Nhật giảm, Giáo hội Công giáo đang phải trả thuế cao
hơn đáng kể so với trước đây.
Các giám mục Công giáo Hy Lạp đã
nhiều lần kêu gọi chú ý đến những khó khăn này; các ngài cũng chỉ trích các
chính sách thắt lưng buộc bụng do châu Âu áp đặt đã làm gia tăng tình trạng
nghèo đói trên khắp đất nước, như mạng lưới Caritas địa phương xác nhận.
Thật vậy, Caritas Hy Lạp phối hợp
với Caritas Quốc tế và các tổ chức từ thiện Công giáo khác đã đi đầu trong việc
ứng phó với khủng hoảng và hỗ trợ các nhu cầu của người nghèo và những người dễ
bị tổn thương nhất, bao gồm cả những người di cư ở quần đảo Aegean và ở lục địa
Hy Lạp. Công việc này đã được tiếp tục trong đại dịch Covid-19.
Quan hệ đại kết Công giáo và Chính Thống Hy Lạp
Mối quan hệ đại kết giữa Công
giáo và Giáo hội Chính Thống giáo chiếm đa số ở Hy Lạp đã đạt được một số tiến
bộ trong những năm gần đây. Một bước tiến quan trọng là Cuộc Hành hương Năm
Thánh của thánh Gioan Phaolô II theo dấu chân của thánh Phaolô Tông đồ, vào năm
2001. Đây là chuyến thăm đầu tiên của một Giáo hoàng tại đất nước này. Điểm nổi
bật của sự kiện lịch sử đó là việc thánh Giáo hoàng xin tha thứ cho việc cướp
phá Constantinople vào năm 1204 bởi cuộc Thập tự chinh và việc ký kết Tuyên bố
chung về nguồn gốc Kitô giáo ở châu Âu với Giáo chủ Chính thống Hy Lạp
Christòdoulos, vào ngày 4/5/2001.
Kể từ đó, Tòa thánh và Giáo hội
Chính Thống tự trị của Hy Lạp đã tìm kiếm sự hợp tác chặt chẽ hơn trong lĩnh
vực mục vụ và trong các vấn đề thực tế chung, đặc biệt là trong bối cảnh của
Liên minh châu Âu. Điều này càng được chứng thực bằng Tuyên bố chung được ký
bởi Đức Thánh Cha Phanxicô, Giáo chủ Chính Thống giáo Hy Lạp Hieronymos II và
Thượng phụ Bartolomeo I của Constantinople, trong chuyến thăm trại tị nạn
Moria, trên đảo Lesvos của Hy Lạp, vào ngày 16/4/2016.
Trong Tuyên bố đó, ba nhà lãnh
đạo của Giáo hội đã cùng kêu gọi cộng đồng quốc tế “sử dụng mọi cách để đảm bảo
rằng, các cá nhân và cộng đồng, bao gồm cả Kitô hữu, vẫn ở lại quê hương của họ
và hưởng quyền cơ bản được sống trong hòa bình và an ninh”, đồng thời dấn thân
“kiên định và hết lòng” để tăng cường nỗ lực của họ “để thúc đẩy sự hiệp nhất
trọn vẹn của tất cả các Kitô hữu”.
Đức Hồng y Leonardo Sandri, Tổng Trưởng
Bộ các Giáo hội Đông Phương, đã nhắc lại hy vọng của Tòa thánh về sự cộng tác
nhiều hơn nữa giữa hai Giáo hội, đặc biệt trong việc phục vụ bác ái và trong
việc quảng bá các giá trị Kitô giáo trong xã hội Hy Lạp, nhân dịp ngài thăm đất
nước này vào tháng 11/2019.
Nguồn: vaticannews.va/vi/