ĐỨC THÁNH CHA TRẢ
LỜI PHỎNG VẤN TRÊN CHUYẾN BAY TỪ MÔNG CỔ TRỞ VỀ ROMA
Vatican News
Vatican News (05.09.2023)
– Trong cuộc đối thoại với các nhà báo trên chuyến bay từ Mông Cổ trở về, Đức
Thánh Cha Phanxicô đã đề cập đến nhiều chủ đề khác nhau, bao gồm cả Thượng Hội
đồng sắp tới, và nhắc lại rằng những nhận xét gần đây của ngài với giới trẻ
Công giáo Nga là một lời mời gọi họ đừng quên di sản văn hóa của mình. Ngài
cũng có suy nghĩ tích cực về quan hệ ngoại giao với Việt Nam và nói rằng một
chuyến viếng thăm Việt Nam của một Giáo hoàng là điều chắc chắn và ngài có thiện
cảm với Việt Nam. Sau đây là bản tiếng Việt nội dung cuộc phỏng vấn Đức Thánh
Cha trên chuyến bay, được dịch từ bản tiếng Anh.
Jargalsaikhan Dambadarjaa (Defacto Gazete):
Xin cám ơn Đức Thánh Cha rất nhiều vì đã viếng thăm
Mông Cổ. Câu hỏi của con là: mục tiêu chính của ngài trong chuyến thăm này là
gì và ngài có hài lòng với kết quả đạt được không.
- Ý tưởng đến thăm Mông Cổ đến với tôi khi nghĩ về cộng đoàn
Công giáo nhỏ bé. Tôi thực hiện những chuyến đi này để thăm viếng các cộng đoàn
Công giáo và cũng để đối thoại với lịch sử và văn hóa của các dân tộc, với những
gì là huyền nhiệm riêng của một dân tộc. Điều quan trọng là việc loan báo Tin Mừng
không được cảm nhận như là việc chiêu dụ tín đồ. Việc chiêu dụ tín đồ luôn bó
buộc. Đức Giáo hoàng Biển Đức nói rằng đức tin không phát triển nhờ chiêu dụ mà
bằng sự thu hút. Loan báo Tin Mừng là bắt đầu đối thoại với văn hóa. Có việc
Phúc Âm hóa văn hóa và có sự hội nhập văn hóa của Tin Mừng, bởi vì các Kitô hữu
cũng thể hiện những giá trị Kitô giáo của mình bằng nền văn hóa của chính dân tộc
của họ. Điều này hoàn toàn trái ngược với một sự thuộc địa hóa tôn giáo.
Đối với tôi, chuyến viếng thăm là để hiểu biết dân tộc Mông
Cổ, để bắt đầu đối thoại với dân tộc này, để tiếp nhận nền văn hóa của dân tộc
này và để đồng hành cùng Giáo hội trên hành trình của Giáo hội với lòng tôn trọng
sâu sắc đối với họ và với nền văn hóa của họ. Và tôi hài lòng với kết quả
này."
Ulambadrakh Markhaakhuu (ULS Suld Tv)
Ngày nay, sự xung đột giữa các nền văn minh chỉ có thể
được giải quyết thông qua đối thoại, như Đức Thánh Cha đã nói. Ulaanbaatar có
thể đề nghị chính mình là nền tảng cho cuộc đối thoại quốc tế giữa Châu Âu
và Châu Á không?
- Tôi nghĩ là có. Các bạn có một điều rất thú vị và điều này
cũng tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đối thoại này và tôi muốn gọi nó là “sự
huyền bí của người láng giềng thứ ba”. Các bạn nghĩ rằng Ulaanbaatar là thủ đô
của một quốc gia xa biển nhất, và chúng tôi có thể nói rằng vùng đất của các bạn
nằm giữa hai cường quốc là Nga và Trung Quốc. Và vì lý do này, sự huyền bí của
các bạn là cố gắng đối thoại ngay cả với "các người láng giềng thứ
ba": không phải vì khinh thường hai nước này, bởi vì các bạn có mối quan hệ
tốt với cả hai, nhưng bởi vì mong muốn sự phổ quát, mong muốn thể hiện giá trị
của mình với toàn thế giới và cũng mong muốn nhận được từ những người khác các
giá trị của họ để đối thoại.
Điều hiếu kỳ là trong lịch sử, việc đi tìm những vùng đất
khác thường bị nhầm lẫn với chủ nghĩa thực dân, hoặc với việc xâm nhập để thống
trị... luôn luôn. Các bạn thì ngược lại, với bí quyết về người láng giềng thứ
ba này, các bạn có triết lý đi tìm kiếm, nhưng để đối thoại. Tôi rất thích
thành ngữ "người láng giềng thứ ba" này. Đó là sự phong phú của các bạn."
Cristina Cabrejas (EFE)
Hôm qua ngài đã gửi một thông điệp cho nhân dân Trung
Quốc và yêu cầu người Công giáo hãy là những công dân tốt sau khi chính quyền
nước này không cho phép các giám mục đến Mông Cổ. Hiện nay các mối quan hệ với
Trung Quốc thì thế nào? Và có tin tức gì về chuyến đi của Đức Hồng Y Zuppi đến
Bắc Kinh và sứ vụ ở Ucraina không?
- Sứ vụ của Đức Hồng Y Zuppi là sứ vụ hòa bình mà tôi đã
giao phó. Và ngài đã lên kế hoạch đến thăm Moscow, Kiev, Hoa Kỳ và cả Bắc Kinh.
Đức Hồng Y Zuppi là một người đối thoại tuyệt vời và có tầm nhìn phổ quát.
Trong quá khứ ngài đã có kinh nghiệm làm việc ở Mozambique trong việc tìm kiếm
hòa bình và đó là lý do tôi đã phái ngài đi.
Các mối quan hệ với Trung Quốc rất được tôn trọng, rất được
tôn trọng. Cá nhân tôi rất ngưỡng mộ nhân dân Trung Quốc. Các kênh (liên lạc) rất
cởi mở - về việc bổ nhiệm các Giám mục, có một ủy ban đã làm việc với chính phủ
Trung Quốc và Vatican từ một thời gian dài. Sau đó có nhiều, hay đúng hơn là một
số linh mục Công giáo hoặc những trí thức Công giáo thường được mời giảng dạy tại
các trường đại học Trung Quốc.
Tôi tin rằng chúng ta phải tiến lên trong khía cạnh tôn giáo
để hiểu nhau hơn và các công dân Trung Quốc đừng nghĩ rằng Giáo hội không chấp
nhận văn hóa cũng như các giá trị của họ và rằng Giáo hội phụ thuộc vào một thế
lực nước ngoài khác.
Ủy ban do Đức Hồng Y Parolin làm chủ tịch đang hoạt động tốt
trên con đường thân thiện này: họ đang làm rất tốt công việc, cả về phía Trung
Quốc, các mối quan hệ cũng đang tiến triển. Tôi rất tôn trọng dân tộc Trung Quốc.
Gerard O'Connell (America Magazine)
Thưa Đức Thánh Cha, các mối quan hệ giữa Việt Nam và
Tòa Thánh hiện nay rất tích cực, gần đây các mối quan hệ này đã có bước tiến
đáng kể. Nhiều người Công giáo Việt Nam xin ngài đến thăm họ như ngài đã đến
Mông Cổ. Hiện nay có cơ hội viếng thăm Việt Nam không? Có lời mời nào từ
chính phủ không? Và ngài đã lên kế hoạch cho những chuyến viếng thăm nào khác?
- Việt Nam là một trong những kinh nghiệm đối thoại rất đẹp
mà Giáo hội đã có được trong thời gian gần đây. Tôi có thể nói nó giống như sự
đồng cảm trong đối thoại. Hai bên đều có thiện chí hiểu nhau và tìm cách để tiến
tới; đã có các vấn đề, nhưng ở Việt Nam tôi tin rằng sớm muộn gì các vấn đề
cũng sẽ được khắc phục.
Cách đây không lâu chúng tôi đã nói chuyện cách thoải mái với
Chủ tịch nước Việt Nam. Tôi rất tích cực về mối quan hệ với Việt Nam; công việc
đã được thực hiện tốt trong nhiều năm qua. Tôi nhớ cách đây bốn năm, một nhóm
nghị sĩ Việt Nam đã đến viếng thăm: đã có một cuộc đối thoại tốt đẹp với họ, rất
tôn trọng. Khi một nền văn hóa cởi mở thì có khả năng đối thoại; nếu có sự khép
kín hay nghi ngờ thì đối thoại rất khó khăn. Với Việt Nam, cuộc đối thoại cởi mở,
có những ưu điểm và nhược điểm, nhưng nó cởi mở và từ từ tiến tới. Có một số vấn
đề, nhưng chúng đã được giải quyết.
Về việc viếng thăm Việt Nam, nếu tôi không đi thì Đức Gioan
XXIV chắc chắn sẽ đi. Chắc chắn là sẽ có (một chuyến viếng thăm), bởi vì đó là
vùng đất đáng để tiến tới, nơi tôi rất cảm mến.
Về những chuyến đi khác thì có Marseille và sau đó có một
chuyến viếng thăm một quốc gia nhỏ bé ở Châu Âu và chúng tôi đang xem liệu mình
có thể làm được hay không. Nhưng thành thật mà nói, đối với tôi, thực hiện một
chuyến viếng thăm bây giờ không còn dễ dàng như lúc đầu. Có một số hạn chế
trong việc đi lại và điều này hạn chế tôi. Nhưng chúng ta sẽ thấy."
Fausto Gasparroni (ANSA)
Thưa Đức Thánh Cha, những phát biểu mới đây của ngài với
giới trẻ Công giáo Nga về "người mẹ Nga vĩ đại", di sản của những
nhân vật như Pie Đại đế và Catarina II đã gây nên những tranh luận. Đây là những
tuyên bố - có thể nói - đã gây khó chịu, ví dụ, đối với người Ucraina, cũng gây
ra hậu quả trong lĩnh vực ngoại giao và ở một mức độ nào đó được coi gần như là
sự tán dương chủ nghĩa đế quốc Nga và thậm chí là một kiểu tán thành các chính
sách của Putin. Con muốn hỏi ngài, tại sao ngài lại cảm thấy cần phải đưa ra những
nhận xét này, nếu ngài suy tư về cơ hội đưa ra những nhận xét này, ngài có lặp
lại chúng không. Và ngoài ra, để rõ ràng hơn, ngài có thể cho chúng con biết
ngài nghĩ gì về chủ nghĩa đế quốc và đặc biệt là chủ nghĩa đế quốc Nga không?
- Chúng ta hãy nói về bối cảnh: nó là một cuộc đối thoại với
giới trẻ Nga. Và khi kết thúc cuộc đối thoại, tôi đã gửi cho họ một thông điệp,
một thông điệp mà tôi luôn nhắc lại: hãy chịu trách nhiệm về di sản của họ. Điểm
đầu tiên: tiếp nhận di sản của các bạn. Tôi cũng nói như vậy ở mọi nơi. Và với
ý tưởng này trong đầu, tôi cố gắng tạo ra một cuộc đối thoại giữa ông bà và
cháu chắt: rằng con cháu sẽ thừa kế di sản của họ. Tôi nói điều này ở khắp mọi
nơi và đó là thông điệp.
Điểm thứ hai, làm rõ điều tôi muốn nói về di sản: trên thực
tế, tôi đã đề cập đến ý tưởng về Nước Nga vĩ đại, bởi vì di sản Nga rất hay, rất
đẹp. Hãy nghĩ về lĩnh vực văn học, âm nhạc, hãy nghĩ đến Dostojewski, người
ngày nay nói với chúng ta về chủ nghĩa nhân văn trưởng thành. (Nga) đã đảm nhận
chủ nghĩa nhân văn này, điều được phát triển trong nghệ thuật và văn học. Đây sẽ
là khía cạnh thứ hai khi tôi nói về di sản, đúng không?
Điểm thứ ba, có lẽ không phù hợp, nhưng nói về nước Nga vĩ đại
không phải theo nghĩa địa lý mà theo nghĩa văn hóa, tôi đã nhớ lại những gì
chúng tôi đã được dạy ở trường: Pie Đại đế, Catarina đệ nhị. Và điểm thứ ba này
xuất hiện, điều này có lẽ không hoàn toàn đúng. Tôi không biết. Hãy để các nhà
sử học cho chúng ta biết. Nhưng đó là một điểm bổ sung xuất hiện trong đầu tôi
vì tôi đã học nó ở trường.
Điều tôi nói với những người Nga trẻ tuổi là hãy chịu trách
nhiệm về di sản của họ, hãy nhận lấy di sản của họ, nghĩa là đừng mua nó ở nơi
khác. Hãy nhận lấy di sản của các bạn. Và di sản mà nước Nga vĩ đại đã để lại
là gì? Văn hóa Nga có một vẻ đẹp rất tuyệt vời, và rất có chiều sâu; và không
nên bị hủy bỏ vì các vấn đề chính trị. Đã có những năm tháng đen tối ở Nga,
nhưng di sản của nó vẫn luôn tồn tại như vậy.
Rồi bạn nói về chủ nghĩa đế quốc, và tôi không nghĩ đến chủ
nghĩa đế quốc khi nói điều đó. Tôi nói về văn hóa, và việc truyền tải văn hóa
không bao giờ mang tính chất đế quốc, không bao giờ. Nó luôn luôn là đối thoại,
và tôi đang nói về điều này.
Đúng là có những đế quốc muốn áp đặt ý thức hệ của mình. Tôi
sẽ dừng ở đây: khi văn hóa bị chắt lọc và biến thành ý thức hệ thì đó là chất độc.
Văn hóa được sử dụng nhưng được chắt lọc thành ý thức hệ. Chúng ta phải phân biệt
văn hóa của một dân tộc với các ý thức hệ xuất phát từ một triết gia, một chính
trị gia nào đó của dân tộc đó. Và tôi nói điều này cho mọi người, cũng như cho
Giáo hội.
Trong Giáo hội thường có các ý thức hệ, những điều tách Giáo
hội ra khỏi sự sống được bắt nguồn từ gốc rễ và đi lên. Chúng tách Giáo hội ra
khỏi ảnh hưởng của Chúa Thánh Thần. Một ý thức hệ không có khả năng nhập thể,
nó chỉ là một ý tưởng. Nhưng khi ý thức hệ nắm quyền kiểm soát và trở thành
chính trị, nó thường trở thành chế độ độc tài, phải không? Nó trở nên không thể
đối thoại, không thể tiến tới với các nền văn hóa. Và chủ nghĩa đế quốc làm điều
này. Chủ nghĩa đế quốc luôn củng cố trên cơ sở một ý thức hệ. Trong Giáo hội,
chúng ta cũng phải phân biệt giữa giáo lý và ý thức hệ: giáo lý đích thực không
bao giờ mang tính ý thức hệ, không bao giờ. Nó bén rễ nơi dân thánh trung thành
của Thiên Chúa. Ngược lại, ý thức hệ tách rời khỏi thực tế, tách rời khỏi con
người... Tôi không biết tôi đã trả lời câu hỏi của bạn chưa.
Robert Messner (DPA)
Xin chào. Một câu hỏi liên quan đến việc cập nhật tài
liệu Laudato si' của ngài: liệu nó có thể được hiểu như một sự thể hiện sự đồng
cảm với các nhà hoạt động môi trường như “Thế hệ cuối cùng”, nhóm tổ chức các
cuộc biểu tình quá khích? Có lẽ trong bản cập nhật này cũng có một thông điệp
nào đó dành cho các nhà hoạt động trẻ xuống đường?
Nói chung, tôi không đề cập đến những kẻ cực đoan này. Nhưng
giới trẻ lại lo lắng. Một nhà khoa học xuất sắc người Ý – chúng tôi đã có một
cuộc gặp gỡ tại Hàn lâm viện (về Khoa học) – đã có một bài phát biểu hay và kết
luận rằng: “Tôi không muốn cháu gái tôi, mới chào đời hôm qua, phải sống trong
một thế giới tồi tệ như vậy trong ba mươi năm nữa."
Người trẻ nghĩ về tương lai. Và theo nghĩa đó, tôi thích việc
họ chiến đấu hăng hái. Nhưng khi có liên quan đến ý thức hệ, hoặc có liên quan
đến áp lực chính trị hoặc được sử dụng vào mục đích này, thì nó sẽ thất bại.
Tông Huấn của tôi sẽ được công bố vào ngày lễ Thánh
Phanxicô, ngày 4 tháng 10, và nó là một sự xem xét lại những gì đã xảy ra kể từ
COP (Hội nghị biến đổi khí hậu) ở Paris, hội nghị có lẽ là hiệu quả nhất cho đến
nay. Có một số tin tức về một số hội nghị COP và về một số vấn đề vẫn chưa được
giải quyết và cần phải giải quyết chúng một cách khẩn cấp. Nó không là một tài
liệu lớn như Laudato si’, nhưng là sự tiếp nối của Laudato si’ về những điều mới
mẻ, và cũng là một phân tích về tình hình.
Etienne Loraillere (KTO TV)
Ngài muốn có một Giáo hội hiệp hành ở Mông Cổ và trên
khắp thế giới. Đại hội (Thượng Hội đồng) tháng 10 đã là thành quả công việc của
dân Chúa. Làm thế nào những người đã được rửa tội từ khắp nơi trên thế giới có
thể tham gia vào giai đoạn này? Làm thế nào có thể tránh được sự phân cực về ý
thức hệ? Và liệu những người tham gia có thể nói và chia sẻ một cách công khai
những gì họ đang trải qua để cho phép đồng hành cùng họ không? Hay toàn bộ tiến
trình sẽ được trình bày kín?
Bạn đã nói về cách tránh áp lực ý thức hệ. Không có chỗ cho
ý thức hệ trong Thượng Hội đồng, vì nó là một động lực khác. Thượng Hội đồng là
cuộc đối thoại giữa những người đã được rửa tội, giữa các thành viên của Giáo hội,
về đời sống của Giáo hội, về việc đối thoại với thế giới, về những vấn đề ảnh
hưởng đến nhân loại ngày nay. Nhưng khi người ta nghĩ (về việc thực hiện) một
con đường theo ý thức hệ, thì Thượng Hội đồng kết thúc. Không có chỗ cho ý thức
hệ trong Thượng Hội đồng, chỉ có chỗ cho đối thoại. Trò chuyện với nhau, như
anh chị em, và thảo luận giáo lý của Giáo hội. Tiến về phía trước.
Tiếp đến, tôi muốn nhấn mạnh rằng tính hiệp hành không phải
là phát minh của tôi: chính là Thánh Phaolô VI. Khi Công đồng Vatican II kết
thúc, ngài nhận ra rằng ở phương Tây, Giáo hội đã mất đi chiều kích hiệp hành;
Giáo hội Đông phương vẫn còn. Vì mục đích này, ngài đã thành lập Văn phòng Thư
ký của Thượng Hội đồng Giám mục; trong sáu mươi năm qua, văn phòng này đã tiến
hành việc suy tư theo cách thức hiệp hành, với sự tiến bộ liên tục, tiến về
phía trước. Nhân dịp kỷ niệm 50 năm quyết định này của Thánh Phaolô VI, tôi đã
ký và công bố một tài liệu về Thượng Hội đồng là gì, và nó đang tiến triển thế
nào. Và bây giờ nó đang tiến triển, nó đã chín mùi hơn, và vì lý do này, tôi
nghĩ thật tốt khi có một Thượng Hội đồng về tính hiệp hành, điều vốn không phải
là một trào lưu nhưng là một thực tế lâu đời, Giáo hội Đông phương luôn có nó.
Nhưng làm thế nào để chúng ta sống tính hiệp hành, và sống
nó với tư cách là các Kitô hữu, như tôi đã nói trước đây, mà không rơi vào các
ý thức hệ.
Về tiến trình của đại hội Thượng Hội đồng: có một điều mà
chúng ta phải bảo vệ, đó là bầu khí hiệp hành. Đây không phải là một chương
trình truyền hình nơi bạn nói về mọi thứ. Không. Có một khoảnh khắc tôn giáo,
có một khoảnh khắc trao đổi tôn giáo. Trong phần giới thiệu của Thượng Hội đồng,
mỗi người sẽ nói ba đến bốn phút, ba (bài phát biểu) và sau đó sẽ có ba đến bốn
phút im lặng để cầu nguyện. Sau đó là ba bài nữa và cầu nguyện. Không có tinh
thần cầu nguyện này thì không có tính hiệp hành, nó trở thành chính trị và nơi
tranh luận như ở nghị viện. Thượng Hội đồng không phải là một nghị viện.
Về vấn đề riêng tư của các cuộc thảo luận: có một bộ phận do
tiến sĩ Ruffini đứng đầu, người đang ở đây và sẽ đưa ra các thông cáo báo chí về
tiến trình của Thượng hội đồng. Trong một Thượng Hội đồng, điều cần thiết là bảo
vệ tính tôn giáo và bảo vệ quyền tự do của những người phát biểu. Về vấn đề này
sẽ có một ủy ban, do Tiến sĩ Ruffini làm chủ tịch, sẽ cung cấp thông tin về tiến
triển của Thượng Hội đồng.
Antonio PELAYO (Vida Nueva)
Thưa Đức Thánh Cha, ngài vừa nói về Thượng hội đồng và
tất cả chúng con đều đồng ý với ngài rằng Thượng Hội đồng này đã tạo ra nhiều sự
hiếu kỳ và quan tâm. Thật không may, nó cũng gây ra nhiều chỉ trích từ các thực
tại Công giáo. (Bây giờ) con đề cập đến một cuốn sách có lời mở đầu của Đức Hồng
Y Burke, người nói rằng Thượng Hội đồng là một chiếc hộp pandora mà từ đó mọi
tai họa cho Giáo hội sẽ xuất hiện. Ngài nghĩ gì về quan điểm này? Ngài có nghĩ
rằng nó sẽ bị thực tế khắc phục hay (quan điểm này) có thể ảnh hưởng đến Thượng
Hội đồng?
- Tôi không biết liệu tôi đã nói điều này trước đây chưa.
Cách đây vài tháng, tôi đã gọi điện cho một tu sĩ Cát Minh. “Các nữ tu thế nào
rồi, thưa Mẹ Bề Trên?” Chị bề trên không phải là một nữ tu dòng Cát Minh người
Ý. Và chị đã trả lời tôi. Và cuối cùng chị nói với tôi: “Thưa Đức Thánh Cha,
chúng con lo sợ về Thượng Hội đồng này”. “Bây giờ chuyện gì đang xảy ra vậy?”
Tôi nói đùa: “Chị có muốn gửi một nữ tu đến Thượng Hội đồng không?” “Không,
chúng con sợ ngài sẽ thay đổi giáo lý.” Và đây là những gì sơ ấy đang nói, sơ ấy
có ý tưởng này…
Nhưng nếu bạn đi đến tận gốc rễ của những ý tưởng này, bạn sẽ
tìm thấy những ý thức hệ. Luôn luôn, khi người ta muốn tách rời khỏi con đường
hiệp thông trong Giáo hội, điều luôn luôn kéo nó tách rời chính là ý thức hệ.
Và họ buộc tội Giáo hội về điều này điều nọ, nhưng họ không bao giờ buộc tội về
những điều là sự thật: (Giáo hội được tạo nên từ) những kẻ tội lỗi. Họ không
bao giờ nói đến tội lỗi… Họ bênh vực một thứ “đạo lý”, một đạo lý tinh tuyền giống
như nước cất không có mùi vị và không phải là đạo lý Công giáo đích thực như
trong Kinh Tin Kính; và là những điều thường tạo nên cớ vấp phạm. Vấn đề Thiên
Chúa đã nhập thể, Thiên Chúa đã trở thành con người, Đức Mẹ vẫn đồng trinh thì
khó chấp nhận biết bao. Điều này gây nên cớ vấp phạm.
Cindy Wooden (CNS)
Xin chào Đức Thánh Cha, con muốn tiếp tục câu hỏi của
bạn đồng nghiệp người Pháp của con về Thượng Hội đồng và thông tin. Rất nhiều
giáo dân đã dành rất nhiều thời gian, cầu nguyện, tham gia vào việc nói và lắng
nghe. Họ muốn biết điều gì đang diễn ra trong Thượng Hội đồng. Và ngài đã nói về
kinh nghiệm của ngài về Thượng Hội đồng về các tu sĩ, trong đó một số người đã
nói, “đừng đặt điều này…”, “Bạn không thể nói điều này…” Chúng con, những nhà
báo, thậm chí không được tiếp cận Đại hội của Thượng Hội đồng và các phiên họp
chung. Làm sao chúng con có thể chắc chắn rằng những gì chúng con được thông
tin là sự thật? Không có cơ hội cởi mở hơn một chút với các nhà báo sao?
- Nhưng [nó] rất cởi mở, bạn thân mến; nó
rất cởi mở! Có một ủy ban do [Paolo] Ruffini [Bộ trưởng Bộ Truyền thông
Vatican] chủ trì sẽ đưa tin tức hàng ngày, nhưng cởi mở hơn, tôi không biết, cởi
mở hơn, tôi không biết...
Thật tốt khi ủy ban này sẽ rất tôn trọng các bài phát biểu của
mọi người và sẽ cố gắng không nói huyên thuyên, nhưng nói những điều chính xác
về tiến trình Thượng Hội đồng, mang tính xây dựng cho Giáo hội. Nếu bạn muốn, nếu
ai đó muốn rằng các tin tức là, “Người này đối lập người kia vì lý do này hay
lý do kia,” thì đó là chuyện tầm phào chính trị.
Ủy ban không có một nhiệm vụ dễ dàng khi nói: “Hôm nay sự
suy tư đã đi theo hướng này, nó đã diễn ra như thế này,” và truyền tải tinh thần
giáo hội chứ không phải tinh thần chính trị. Một Nghị viện khác với Thượng Hội
đồng. Đừng quên rằng nhân vật chính của Thượng Hội đồng là Chúa Thánh Thần. Và
làm thế nào điều này có thể được truyền tải? Đây là lý do tại sao tiến trình của
Giáo hội phải được chuyển tải.
Vincenzo Romeo (RAI TG 2)
Xin chào Đức Thánh Cha. Ngài là Giáo hoàng của các
vùng ngoại vi, và các vùng ngoại vi, đặc biệt là ở Ý, đang phải chịu đau khổ rất
nhiều. Chúng ta đã chứng kiến một số giai đoạn đáng lo ngại về bạo lực, suy
thoái... Chẳng hạn, gần Napoli, một cha xứ, Cha [Maurizio] Patriciello [cha xứ ở
Caivano] thậm chí còn mời ngài đến [đó], rồi đến Palermo [ở Sicilia]. Những gì
có thể được thực hiện? Ngài đã đến thăm “các khu ổ chuột” ở Buenos Aires, vì vậy
ngài có kinh nghiệm về việc này. Thủ tướng của chúng con cũng đã đến thăm một
trong những vùng ngoại vi này. Có rất nhiều cuộc thảo luận. Có thể làm gì, Giáo
hội và các tổ chức của Nhà nước có thể làm gì để vượt qua sự suy thoái này và
biến các vùng ngoại vi thực sự là một phần của một quốc gia?
Bạn nói về những vùng ngoại vi, giống như các khu ổ chuột: bạn
phải đi tới, bạn phải đến đó và làm việc ở đó, như đã được thực hiện ở Buenos
Aires bởi các linh mục làm việc ở đó – một nhóm linh mục có một Giám mục phụ tá
đứng đầu – và bạn làm việc ở đó. Chúng ta phải cởi mở với điều này, các chính
phủ phải cởi mở, tất cả các chính phủ trên thế giới, nhưng có những vùng ngoại
vi thật bi thảm.
Tôi quay lại với một vùng ngoại vi đầy tai tiếng mà người ta
cố gắng che đậy: vùng ngoại vi của người Rohingya. Người Rohingya đau khổ. Họ
không phải là Kitô hữu; họ là người Hồi giáo, nhưng họ đau khổ vì bị biến thành
một vùng ngoại vi; họ đã bị đuổi ra ngoài. Chúng ta phải nhìn thấy các loại ngoại
vi khác nhau và cũng biết rằng ngoại vi là nơi thực tại của con người hiển nhiên
hơn và ít phức tạp hơn – [cũng có] những khoảnh khắc tồi tệ, tôi không muốn lý
tưởng hóa – nhưng nó được nhìn nhận tốt hơn.
Một triết gia từng nói một điều khiến tôi vô cùng ấn tượng:
“Thực tế được hiểu rõ nhất từ những vùng ngoại vi”. Chúng ta phải nói chuyện với
những vùng ngoại vi, và các chính phủ phải thực hiện công bằng xã hội thực sự,
công bằng xã hội thực sự, với những vùng ngoại vi xã hội khác nhau và cả với những
vùng ngoại vi ý thức hệ, để khiến họ nói chuyện, bởi vì nhiều khi chính những
vùng ngoại vi ý thức hệ tế nhị đó đã kích động những ngoại vi xã hội. Thế giới
của các vùng ngoại vi không hề dễ dàng. Xin cảm ơn.
Nguồn: vaticannews.va/vi