Đức cha Giuse Nguyễn Chí Linh: “Tôi không hề cảm thấy xa lạ ở Thanh Hóa”
Đức
cha Giuse Nguyễn Chí Linh: “Tôi không hề cảm thấy xa lạ ở Thanh Hóa”
Bài trả lời phỏng vấn Đức cha dành cho tờ Églises d’Asie (ÉDA), cơ quan của Hội Thừa
sai nước ngoài
Đức Giám mục
Giuse Nguyễn Chí Linh sinh năm 1949, tại giáo xứ Ba Làng, thuộc giáo phận Thanh
Hóa, giáo phận ngài phụ trách hiện nay. Khi diễn ra cuộc di cư năm 1954, ngài
còn rất nhỏ. Gia đình ngài tới sống tại giáo phận Nha Trang. Và cũng chính tại
đây, ngài bắt đầu được đào tạo để làm linh mục. Ngài học xong Đại chủng viện
năm 1978. Nhưng do tình hình chính trị, ngài phải đợi đến năm 1992 mới được thụ
phong linh mục. Sau đó, ngài được gửi đi Pháp và đậu tiến sĩ triết học tại Học
viện Công giáo
Églises
d’Asie: Trong bài phỏng vấn Đức cha
vui lòng dành cho chúng tôi năm ngoái, Đức cha đã giới thiệu với chúng tôi một
bức tranh không mấy lạc quan về tình trạng kinh tế trên lãnh thổ của giáo phận
ngài coi sóc. Đặc biệt, Đức cha đã nhấn mạnh đến những khó khăn của người nông
dân, càng trầm trọng thêm do các thiên tai xảy ra trên phần đất này của Việt
Giám
mục Giuse Nguyễn Chí Linh: So với năm ngoái, tình hình kinh tế trong tỉnh
Thanh Hóa không mấy thay đổi. Đa số dân chúng tiếp tục sinh sống bằng nghề trồng
lúa nước, một thứ canh tác chỉ đem lại những thu nhập rất còm cõi. Hơn nữa, với
sự gia tăng dân số, diện tích trồng trọt mỗi ngày mỗi bé đi không đủ cho số người
ở trong tuổi lao động. Đó là lý do tại sao ngày càng có nhiều người trẻ bỏ nông
thôn về thành phố, đặc biệt là các thành phố phía
– Đức cha cũng đã nói đến nhiều dự án đang
được thực hiện trong giáo phận của Đức cha liên quan đến việc đào tạo linh mục
ngay trước khi vào Đại chủng viện, việc thiết lập các cộng đoàn tu sĩ, việc
thành lập và củng cố các phong trào hoạt động giáo dân, vân vân. Các dự án đã đạt
được kết quả tốt đẹp? Đức Cha còn có những dự án mới?
– Câu hỏi của ông thực ra liên quan đến ba lĩnh vực: việc đào tạo tại các chủng viện, việc thiết lập các cộng đoàn tu sĩ và các hoạt động của các hội đoàn tông đồ giáo dân trong giáo phận. Tôi sẽ xin lần lượt đề cập vắn tắt đến ba vấn đề này.
Trước hết, việc đào tạo linh mục: hẳn ông cũng đã biết là sau nhiều thập niên chủng viện bị đóng cửa, số giáo viên và người hướng dẫn dần dần cạn kiệt và việc đào tạo các ứng viên chức linh mục gặp rất nhiều khó khăn. Không tài nào sửa chữa những lỗ hổng này trong vòng mấy ngày. Đối với giáo phận của chúng tôi, cách thích hợp nhất để đạt tới mục tiêu này trước hết là ý thức về tầm quan trọng của việc đào tạo này, kế đó, thực hiện công việc này một cách kiên trì và với phương pháp, từng giai đoạn một. Kinh nghiệm của chúng tôi mỗi năm mỗi thêm phong phú. Hàng năm, có những yếu tố mới góp phần vào công việc đào tạo này, cho phép chúng tôi hiện nay có thể nhìn tương lai với một sự lạc quan nào đó.
Liên quan đến việc thành lập các cộng đoàn tu sĩ, chúng tôi gặp phải hai loại khó khăn. Loại khó khăn thứ nhất là như sau: hiện tại, bầu khí tôn giáo, ít căng thẳng hơn trước, cho phép các dòng tu mở rộng đôi chút hoạt động của họ. Nhưng khi “mùa gặt nhiều, thì thợ gặt lại ít”. Mỗi lần tôi tới gõ cửa một dòng tu để xin giúp đỡ, người phụ trách đều trả lời tôi là nhà dòng đang thiếu nhân sự. Loại khó khăn thứ hai là do tình trạng thiếu cơ sở sẵn sàng tiếp nhận các cộng đoàn tu sĩ này. Các dòng tu không có nguồn tài chánh đủ để tạo nên các cơ sở mới. Nếu muốn họ tới làm việc trong giáo phận, thì phải chuẩn bị cho họ nhà cửa, điều này cho tới nay, chúng tôi không làm nổi.
Liên quan đến việc đào tạo những người giáo dân lãnh trách nhiệm trong các họ đạo, chúng tôi đã đặc biệt quan tâm tới hoạt động này. Các hoạt động mục vụ sẽ không có hiệu quả nếu các thành viên của hội đồng giáo xứ và của hội đồng mục vụ không có một ý thức rõ ràng về sứ mệnh của họ và vai trò họ phải thực hiện trong cộng đồng giáo hội. Song song với công việc này, chúng tôi quan tâm tới việc đào tạo đức tin cho giới trẻ. Mỗi mùa hè, chúng tôi tổ chức các khóa đào tạo cho 1.000 tới 1.500 giáo lý viên. Không có sự lưu tâm dành cho giới trẻ này, giáo phận không thể tiến bộ trong tương lai. Để nói về các dự án gần đây, trước tiên phải nói đến việc cải tổ phương pháp làm việc của các ủy ban giáo phận của chúng tôi. Tôi vừa mới chỉ định một loạt các người phụ trách mới của các ủy ban. Những người này sẽ tập họp lại để làm thành một “Hội đồng mục vụ”, có sứ mệnh bàn tính với nhau để cùng nhau vạch ra các hướng mục vụ cho giáo phận.
– Trong hai tháng nữa, Giáo hội Việt Nam sẽ
mở đầu một Năm thánh, để mừng cùng với kỷ niệm 50 năm thành lập hàng giáo phẩm
công giáo, kỷ niệm lần thứ 350 ngày thành lập hai khu vực đại diện tông tòa đầu
tiên là Đàng Ngoài và Đàng Trong. Ở giáo phận Thanh Hóa, có những địa điểm có từ
buổi đầu của công cuộc truyền giáo ở Việt Nam, trước cả giai đoạn được mừng
kính. Đức cha có thể nói cho chúng tôi biết đôi chút về những địa điểm này? Cuộc
Đại hội lớn sẽ là chóp đỉnh của Năm thánh 2010 được chuẩn bị ra sao?
– Cụ thể, như
ông vừa nói, giáo phận Thanh Hóa có một địa điểm có một tầm quan trọng lớn
trong lịch sử công giáo của Việt
Chắc chắn là câu chuyện này sẽ được bàn luận nhiều lần trong giáo phận trong Năm thánh 2010 cũng là năm tưởng nhớ 50 năm thiết lập hàng giáo phẩm địa phương tại Việt Nam. Ba chủ đề đã được Ủy ban tổ chức Năm thánh chọn làm sợi chỉ đỏ xuyên suốt Năm thánh này, đó là mầu nhiệm, sự hiệp thông và sứ mệnh truyền giáo, sẽ được thích nghi một cách cụ thể cho hoàn cảnh của giáo phận chúng tôi. Do đó, chủ đề mầu nhiệm sẽ có thể được minh họa bởi sự kiện Giáo hội Việt Nam ở phía Bắc đã khởi đầu một cách bất ngờ tại Cửa Bạng. Từ Avignon, quê hương của vị thừa sai đầu tiên, Bắc Việt Nam đã được gắn với miền Trung Việt Nam và đặt trong sự hiệp thông với Giáo hội toàn cầu. Từ Thanh Hóa, Giáo hội được mở rộng, theo nhịp bước chân của thừa sai và trở thành điểm truyền giáo tiêu biểu cho nhiều thế hệ tiếp theo sau. Đó sẽ là những đường hướng chính hướng dẫn các cuộc cử hành và các khóa học hỏi của cộng đồng Dân Chúa trong giáo phận Thanh Hóa. Các chủ đề này cũng sẽ hướng dẫn việc chuẩn bị các đóng góp và phát biểu của địa phận chúng tôi trong Đại hội của dân Chúa, vốn sẽ là đỉnh điểm của Năm thánh 2010.
– Sự trở về nguồn Giáo hội Việt
– Để trả lời
cho câu hỏi này, cần phải phân biệt hai khái niệm gần gũi nhau, nhưng dẫu sao
cũng khác nhau: năng động và tăng trưởng. Từ năng động được dùng để chỉ một phẩm
chất, một nét nổi bật của Giáo hội công giáo Việt Nam, nghĩa là một sự tham gia
rất quan trọng và tích cực vào các hoạt động phụng vụ và mục vụ. Khi nói đến
tăng trưởng, người ta nghĩ đến con số, sự phát triển về mặt dân số. Như ông đã
lưu ý, theo các nhà thống kê học, sinh suất của dân công giáo không cao hơn
sinh suất của toàn bộ dân số Việt
– Thưa Đức cha, mặc dù Đức cha quê ở giáo phận
thuộc trách nhiệm tôn giáo của Đức cha hiện nay, Đức cha đã được đào tạo về mặt
nhân văn và tôn giáo ở miền Nam, chính xác hơn là trong giáo phận Nha Trang.
Khi diễn ra sự thống nhất
– Bối cảnh lịch
sử cực kỳ khác nhau tại hai phần đất nước Việt
- Giáo phận Đà Nẵng – Thư mục vụ Đầu năm Phụng Vụ mới 2024 ( 04/12/2023)
- Giáo phận Hưng Hoá – Thư mục vụ gửi cộng đoàn dân chúa giáo phận hưng hóa về giáo hội tham gia ( 04/12/2023)
- Giáo phận Cần Thơ – Thư Mục vụ Mùa Vọng và Giáng Sinh 2023 ( 04/12/2023)
- Tổng Giáo phận Sài Gòn – Thư mục vụ Mùa Vọng và Mùa Giáng sinh 2023 ( 03/12/2023)
- Giáo phận Phú Cường – Tâm tình Mục tử đầu năm Phụng Vụ năm B ( 03/12/2023)
- Giáo phận Nha Trang – Thư mục vụ nhân dịp đầu năm phụng vụ mới 2023 ( 01/12/2023)
- Giáo phận Kon Tum – Thư Mùa Vọng 2023 ( 01/12/2023)
- Giáo phận Đà Lat – Thư mục vụ Đầu năm Phụng Vụ mới 2024 ( 01/12/2023)
- Giáo phận Bắc Ninh – Thư định hướng mục vụ 2023 - 2024 ( 01/12/2023)
- Giáo phận Phan Thiết: Thư mục vụ Mùa Vọng – Giáng Sinh năm 2023 ( 01/12/2023)