THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC THẾ GIỚI VỀ GIA ĐÌNH
4 – 25/10/2015
Cảm nhận và suy tư
+ Giuse Đinh Đức Đạo
Giám mục Phó Gp
Xuân Lộc
Từ ngày 4 – 25 tháng 10 năm
2015, cùng với Đức Tổng Phaolô Bùi Văn Đọc, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt
Nam, tôi đã tham dự Thượng Hội đồng Giám mục thế giới tại Roma, với chủ đề “Gia đình – Ơn gọi và sứ mạng trong Giáo hội
và Thế giới”. Dưới đây là một số cảm nhận và suy tư, sẽ được trình bày qua 4 đề
mục sau đây:
–
Thành phần,
phương thức làm việc của THĐGM
–
Những dấu nhấn
trong THĐGM
–
Những vấn đề đặt
ra
–
Những bài học
I. Thành phần, phương thức làm việc
1. Thành phần
Các
thành phần tham dự THĐGM gồm:
+ 270 nghị
phụ: những thành viên chính thức của THĐGM. Các vị này có quyền phát biểu và biểu
quyết.
+ 108 người: gồm
các phái đoàn Giáo hội anh em, các dự thính viên và các chuyên viên. Các Phái
đoàn Giáo hội Anh Em và các dự thính viên có thể phát biểu, nhưng không có
quyền biểu quyết.
+ 35 chủng
sinh và tu sĩ: những người phục vụ cho THĐGM.
Tổng cộng có 413 người, không
kể các chuyên viên kỹ thuật, các thông dịch viên và nhân viên an ninh.
2. Phương thức làm việc
Các suy tư và trao đổi trong
THĐGM dựa trên Văn kiện Làm việc (Instrumentum
Laboris), là kết quả của những suy tư và đóng góp của toàn thể Dân Chúa
trong Giáo hội về chủ đề Gia đình. Việc làm của THĐGM được thực hiện theo 3
cách thức làm việc như sau:
a) Các phiên họp
khoáng đại:
có sự tham dự của tất cả mọi thành viên đã nói ở trên và có sự hiện diện của
Đức Thánh Cha. Mỗi nghị phụ tự do chọn lựa đề tài để phát biểu ý kiến về những
điểm trong bản Instrumentum Laboris.
Bản Instrumentum Laboris có 3 phần.
Các bài phát biểu của các nghị phụ được sắp xếp theo các phần của bản Instrumentum Laboris và các nghị phụ
được mời phát biểu theo thứ tự các phần của bản Instrumentum Laboris. Mỗi nghị phụ hay dự thính viên chỉ có 3 phút
để phát biểu, nên phải hết sức cô đọng. Tuy nhiên, các bài phát biểu có thể
được viết dài hơn để nộp cho Văn phòng Thư ký. Nghị phụ hay dự thính viên nào
được phân công hay đăng ký phát biểu ý kiến thì phải viết thành văn bản trước
và trao cho văn phòng thư ký. Một bản của bài phát biểu sẽ được đặt trên bàn
Đức Thánh Cha để khi nghe phát biểu, Ngài có thể đọc để hiểu thêm ý kiến của vị
phát biểu.
b) Phiên họp
nhóm theo ngôn ngữ: Các vị tham dự THĐGM được chia thành 13 nhóm theo ngôn ngữ, mỗi nhóm có
khoảng 20 nghị phụ và 10 người khác (gồm dự thính viên và chuyên viên). Dựa
trên các phát biểu trong phiên họp khoáng đại, từng nhóm sẽ bàn luận, suy tư và
tranh luận về từng số trong Văn kiện Làm việc (Instrumentum Laboris) để thêm bớt, sửa đổi hay xóa bỏ. Để được chấp
nhận, các đề nghị thêm bớt hay xóa bỏ phải
được các nghị phụ trong nhóm bỏ phiếu với số phiếu ít nữa 50%+1.
c) Nhóm 10 người: có 10
vị được Đức Thánh Cha chỉ định. Các vị này, cùng với sự cộng tác của những
chuyên viên, sẽ đọc lại tất cả các văn bản phát biểu của các nghị phụ hay dự
thính viên trong phiên họp khoáng đại, cùng với các bản đúc kết của 13 nhóm, để
chỉnh sửa và soạn thảo Văn bản Làm việc (Instrumentum
Laboris) mới để chuyển tới cho các nghị phụ, để các nghị phụ đọc và cho ý
kiến trong phiên họp khoáng đại tiếp theo đó.
Nhận xét: so sánh với các Thượng Hội đồng Giám mục trrước đây, người ta
thấy có 3 điều mới trong phương thức làm việc:
– Mỗi bài phát biểu của các nghị phụ chỉ được nói 3 phút (thời gian trước đây là 8 phút, sau đó rút
ngắn còn 6 phút, bây giờ chỉ còn 3 phút).
– Dành nhiều thời gian cho việc họp nhóm để mổ xẻ và đưa ra những đề nghị
thay đổi và chỉnh sửa để hoàn thiện Văn bản Làm việc.
– Tuy có những ý kiến khác hay trái ngược nhau, nhưng bầu khí rất tự do và
an bình.
II. Những dấu nhấn của THĐGM
1. Khi phân
tích các thực tại gia đình, người ta nhận thấy có sự chuyển biến giữa Văn kiện Làm
việc (Instrumentum Laboris) và những
phát biểu của các nghị phụ trong các phiên họp khoáng đại, cũng như trong các
cuộc họp của 13 nhóm theo ngôn ngữ. Từ cái nhìn của Instrumentum Laboris, phản ảnh tình trạng xã hội Tây phương, gia đình được nhìn dưới góc cạnh “vấn
đề”, chuyển sang các phát biểu của các nghị phụ, phản ảnh tình trạng gia đình
trên khắp thế giới, gia đình được trình bày dưới khía cạnh vẻ đẹp, diễn tả qua
cụm từ “giấc mơ của Thiên Chúa”. Các
phát biểu của các nghị phụ cho thấy gia đình trên thế giới là thực tại hạnh
phúc. Tuy nhiên, gia đình hạnh phúc không phải là gia đình không có vấn đề,
nhưng là gia đình biết sống các vấn đề dưới ánh sáng và sức mạnh của Đức tin.
2. Giáo lý hôn
nhân: thay vì chỉ là những thông tin hay học biết sơ sài vài luật lệ của Giáo
hội về gia đình và tập nghi thức làm phép hôn phối, THĐGM nhấn mạnh nhiều về
việc cần phải có các chương trình chuẩn bị kỹ càng về hôn nhân: chuẩn bị xa,
chuẩn bị gần. Cần phải có một chương trình đào tạo ứng viên cho đời sống hôn
nhân, vì đây là một Bí tích và mang một sứ mệnh rất cao cả là làm chứng cho
tình yêu chung thủy của Thiên Chúa.
3. Qua những
bài phát biểu trong THĐGM, người ta nhận thấy có 2 khuynh hướng giằng co rõ
rệt:
a) Khuynh
hướng nhấn mạnh vào lòng thương xót của Chúa nên dễ nói đến việc tha thứ lỗi
lầm.
b) Khuynh
hướng nhấn mạnh vào lòng trung thành với giáo huấn của Chúa và sự cần thiết
phải can đảm làm chứng để thế giới biết đến con đường của Chúa là con đường dẫn
đến sự sống, dù thế giới không dễ dàng đón nhận.
4. Khi đọc bản
văn của THĐGM đã được bỏ phiếu, người ta có nhận định rằng không có bản văn
chính thức nào của Giáo hội về gia đình từ trước tới nay có ngôn từ gần gũi và
sự thấu biết những vấn đề cụ thể về hôn nhân gia đình như bản văn của THĐGM lần
này.
III. Những giải pháp được đề nghị cho một số trường
hợp
1. Hôn nhân đồng
tính: một
số nghị phụ, nhất là những nghị phụ bên Âu Mỹ nhấn mạnh rất nhiều về sự cảm
thông, gần gũi với những người đồng tính đến độ làm cho người ta có cảm tưởng là
cần phải chấp nhận họ là như vậy. Nhưng đa phần các nghị phụ trong THĐGM đều tỏ
rõ lập trường là cần phải thương yêu và kính trọng những người này, nhưng cũng cần
phải nói cho rõ là việc sống chung của những người đồng tính không có gì chung
với hôn nhân theo chương trình của Chúa. Như thế, ý kiến của THĐGM về vấn đề
đồng tính đã rõ ràng, không còn hồ nghi gì nữa.
2. Ly dị và tái
hôn: Vấn
đề được bàn cãi nhiều là trường hợp những người ly dị và tái hôn, nhất
là trường hợp phía bị bỏ rơi vô tội, mà đời sống của họ trong gia đình mới
tương đối ổn định. Với những đối tượng này phải giải quyết như thế nào? Có thể cho họ được xưng tội rước lễ
không và có thể cho họ tham dự tích cực hơn (dạy giáo lý, đọc Sách Thánh trong
Phụng vụ…) vào đời sống của cộng đoàn không?
3. Hai đường hướng
giải quyết:
Đường hướng nhấn mạnh vào lòng thương xót tìm cách để cho những đối tượng ngăn
trở nói trên có thể được xưng tội, rước lễ và tham dự tích cực vào đời sống của
cộng đoàn. Đường hướng nhấn mạnh đến sự trung thành với luật của Chúa và can
đảm làm chứng cho Chúa, nhất là trong
bối cảnh của thế giới hôm nay thì nghiêng về việc tiếp tục đường lối hiện nay
là không cho xưng tội và rước lễ. Mỗi khuynh hướng đều có những khó khăn khó
giải quyết.
a) Đường hướng nhấn mạnh lòng
thương xót đưa ra 3 ý tưởng chính:
–
Để cho những đối
tượng này theo lương tâm cùng với một vị linh hướng quyết định.
–
Vì hoàn cảnh của
mỗi vùng khác nhau, xin để cho Đức Giám mục giáo phận quyết định.
– Giải pháp “con đường thống hối”: Sau thời gian đi vào hành trình ăn năn
thống hối với sự hướng dẫn của một vị linh hướng sẽ được xưng tội rước lễ…
b) Đường hướng tiếp tục giữ
quy luật của Giáo hội hiện nay
Cần phải trung thành và loan
truyền giáo huấn của Chúa cho thế giới hôm nay, nhất là khi có nhiều nhóm làm
áp lực muốn “cào bằng” tất cả mọi giá trị và cách thức sống. Nếu muốn được xưng
tội rước lễ, phải sống như anh em và tránh gây gương mù.
4. Những vấn đề đặt ra cho các giải
pháp được đề nghị:
a) Cho xưng
tội, rước lễ có nghĩa là gì? Phải chăng có nghĩa là vấn đề indissolubilitas – bất khả phân ly của hôn nhân là hết không? Ly
dị, tái hôn sẽ là chuyện bình thường có đưa đến hậu quả dây chuyền là dễ dàng
ly dị và coi thường giao ước hôn nhân và sứ mệnh làm chứng cho tình yêu chung
thủy của Chúa đối với nhân loại tội lỗi không?
b) Con đường
thống hối, đặc biệt trong Năm Thánh Lòng
thương xót: nhưng việc thống hối cần phải có sự ăn năn và chừa cải. Thế
nên, nếu chỉ có ăn năn mà không có chừa cải thì có phải là thống hối thực sự
không?
c) Nại đến sự
khác biệt về hoàn cảnh và đối tượng, có ý kiến nói đến nhu cầu cần phải hội
nhập, cần phải thay đổi luật lệ. Vấn đề đặt ra là luật lệ phải cải tiến, nhưng
cải tiến đến đâu là hội nhập và đến đâu là chối bỏ tinh thần, chối bỏ căn tính,
chối bỏ chính mình. Đâu là ranh giới?
d) Phải trung
thành với giáo huấn của giáo hội, nhưng sự trung thành với quy luật của Giáo
hội đến độ nào là trung thành với tinh thần và đến đâu thì trở thành duy luật?
e) Tự do theo
lương tâm và theo sự hướng dẫn của một vị linh hướng, nhưng lương tâm cá nhân
rất dễ chủ quan và sai lầm. Cho nên lương tâm cá nhân cần được huấn luyện dựa
trên các nguyên tắc luân lý khách quan. Vậy chỉ dựa trên lương tâm cá nhân thôi có đủ để quyết định không?
f) Hiệp nhất
trong khác biệt: Sự khác biệt đến đâu là sự phong phú của sự hiệp nhất, đến chỗ
nào là phá vỡ sự hiệp nhất. Trong khi thế giới hôm nay đang chia rẽ, Giáo hội
cần phải giữ sự hiệp nhất. Một đàng phải tôn trọng sự khác biệt, đàng khác phải
giữ sự hiệp nhất: làm sao dung hòa được hai yếu tố này?
g) Hai người
chung sống trong một mái nhà, nhưng phải sống như anh em: liệu điều này có thể
giữ được không? Đàng khác, hoặc vì con cái, hoặc vì chính tình nghĩa thân thiết
giữa hai người qua việc chung sống lâu năm, đòi hỏi họ phải xa nhau, liệu có
trúng không? Đứng trước những đau khổ của họ, lòng thương xót có thể làm gì
được không?
IV. Những bài học
1. Tinh thần đối thoại
Trong phòng họp của THĐGM, mỗi
nghị phụ hoàn toàn tự do phát biểu ý tưởng của mình và tất cả mọi người lắng
nghe nhau với lòng tôn trọng và lắng nghe Chúa qua việc lắng nghe nhau. Dần dà
mọi người cùng thay đổi. Có thể lúc đầu một người có thể quá chú trọng vào một vấn
đề, nhưng khi lắng nghe các ý kiến khác nhau, dần dà sẽ có thể thay đổi và nhờ
vậy, sẽ dễ hiểu nhau và gặp nhau trong an bình.
2. Chấp nhận sự giới hạn của
Giáo hội
– Về vấn đề chấp nhận cho người ly dị tái hôn được xưng tội rước lễ, THĐGM
chưa tìm ra một lời giải đáp thỏa đáng để giữ được cả hai: vừa tỏ lòng thương
xót, vừa trung thành với giáo huấn của Giáo hội…
– Theo giáo huấn của Công đồng Vaticanô, Giáo hội là thần linh và nhân
loại cho nên Giáo hội thánh thiện và tội lỗi. Có lẽ trong yếu tố nhân loại, bên
cạnh yếu tố tội lỗi, phải thêm yếu tố giới hạn: Giáo hội phải chấp nhận giới
hạn của mình vì không thể tìm ra một giải pháp thỏa đáng cho mọi vấn đề. Vì
vậy, các chủ chăn cần gần gũi và tham
dự vào những đau khổ của những đôi vợ chồng đang gặp khó khăn và cùng với họ,
trông chờ lòng thương xót của Chúa.
3. Tạ ơn Chúa và cầu nguyện
Cần phải tạ ơn Chúa vì qua THĐGM
này, Giáo hội thực sự can đảm dám trực diện với những vấn đề muôn vàn khó khăn
của gia đình, đồng thời tiếp tục kêu xin Chúa hướng dẫn soi sáng cho Giáo hội
Chúa trên hành trình lữ thứ.