Tình yêu trong sách Diễm Ca theo cái nhìn của thần học thân xác
“Song of Solomon” bởi Domenico Morelli
TÌNH YÊU TRONG SÁCH DIỄM CA THEO CÁI NHÌN CỦA THẦN HỌC THÂN XÁC
Tác giả: Bình Tâm, CND
MỤC LỤC
2.
Không gian chào đời của Thần Học Về Thân Xác
3. Ý
nghĩa hợp hôn của thân xác
4. Một
cuộc khởi hành đi vào nhân tính
5. Đứng
trước mầu nhiệm thân xác
1. Dẫn nhập
Sách Diễm Ca từ lâu đã được nhiều nhà chú giải Kinh Thánh để
ý tới, đặc biệt là các nhà chú giải Kitô giáo. Trong nhiều thế kỷ đầu, các Giáo
Phụ đã xem sách Diễm Ca như một ẩn dụ bay bổng về tình yêu giữa dân riêng
Israel và Đức Chúa. Lịch sử của dân Do Thái đã được lãng mạn hóa trong mối tình
của người con gái đi tìm lang quân của nàng. Trải qua nhiều thế kỷ chìm đắm
trong truyền thống chiêm niệm của các vị ẩn sĩ và tu sĩ dòng kín, sách Diễm Ca
lại được xem như một ám dụ tuyệt đẹp về cuộc hôn phối thần bí giữa linh hồn và
Thiên Chúa – Đấng đã chọn gọi linh hồn vào hôn ước thiêng liêng với Ngài.
Một trường hợp hiếm hoi có cái nhìn khác về sách Diễm Ca được
kể đến như Teodoro da Mopsuesta (thế kỷ IV). Có vẻ như trong dòng lịch sử lâu
dài này, ông là người duy nhất đã nhìn nhận sách Diễm Ca là bản tình ca về tình
yêu nhân bản của con người, mối tình của vua Salomon và con gái Pharaon. Những
giả thuyết về sau này đôi khi nhìn nhận sách Diễm Ca là một tập hợp của những
bài ca được xướng đáp trong nghi lễ đám cưới bình dân, một vở kịch hoặc một ghi
chú về các giấc mơ cổ xưa.
Cho dù thế nào, chỉ đến gần thế kỷ XX, người ta mới bắt đầu
đọc Diễm Ca như một bài thơ ca tụng tình yêu và nhìn nhận nghĩa hiển nhiên nhất
của nó không phải là một tầng nghĩa đen không đáng kể. Karl Barth là người đầu
tiên đã nối kết ý nghĩa của sách Diễm Ca với ngữ cảnh Kinh Thánh trong Sáng Thế
chương 2[1]. Một số tác giả khác đã đi
xa hơn nữa khi cho rằng Diễm Ca là một tiền đề cho tư tưởng của Thư Phaolô gửi
tín hữu Êphêsô chương 5. Và càng ngày, các nhà chú giải càng cho rằng sách Diễm
Ca – theo nghĩa minh nhiên của nó là một bản tình ca về tình yêu con người –
nói về kế hoạch của Thiên Chúa dành cho thân xác và hôn nhân phàm trần – xứng
đáng là một quyển Kinh Thánh được linh hứng.
Điều này không muốn loại trừ khả năng sách Diễm Ca được soi
chiếu bởi các tầng nghĩa thần học và chiều sâu thần bí khác như đã đề cập,
nhưng muốn nói rằng, với nghĩa minh nhiên của tác phẩm, sách Diễm Ca đã hoàn
toàn có thể được đào sâu như một quyển Kinh Thánh về tình yêu hôn nhân của con
người trong kế hoạch nhiệm mầu của Thiên Chúa. Công việc này không được ai khác
hơn làm rõ trong các thế kỷ gần đây ngoài Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II,
trong các bài giảng của ngài từ năm 1979 đến 1984, đã đề cập một cách sâu sắc ý
nghĩa của Diễm Ca dưới cái nhìn của Thần Học Thân Xác. Chính ngài đã đem Diễm
Ca vào mạch nối xuyên suốt từ Sáng Thế cho đến các sách Tin Mừng và thư Thánh
Phaolô, quảng diễn vẻ đẹp của sách trong một suy tư mới mẻ đáng ngưỡng mộ. Bài
viết dưới đây sẽ nhằm mục đích trình bày sao cho ngắn gọn và dễ hiểu vị trí của
sách Diễm Ca trong Thần Học về Thân Xác của Đức Thánh Giáo Hoàng, hay có thể
nói, chính là cái nhìn của Thần Học Thân Xác về Diễm Ca vậy.
2. Không gian chào đời của Thần Học Về Thân Xác
Nếu không nói tới bối cảnh ra đời của Thần Học về Thân Xác,
sẽ rất khó cho chúng ta hình dung ra đề tài về tình yêu của con người trong kế
hoạch của Thiên Chúa có tầm mức quan trọng như thế nào.
Vào khoảng những năm 60 của thế kỷ XX, cuộc cách mạng tình dục
bùng nổ, đánh dấu bởi sự ra đời của phong trào Hippie và việc thay đổi quan điểm
tình yêu gắn với hôn nhân sang tình yêu tự do và tình dục ngoài hôn nhân. Trong
khi thế giới sôi động với cuộc cách mạng mới này, 2/3 tín hữu thuộc Giáo Hội
Công Giáo chưa từng bao giờ chính thức được nghe đến vấn đề về tính dục và hôn
nhân, thân xác vẫn được ngầm hiểu là vật cản trở con người chạm đến thần linh, ảnh
hưởng từ quan điểm của chủ thuyết Manikê có từ thời cổ đại.
Sự ra đời của thuốc ngừa thai trong những năm 1960 càng làm
cho đời sống tình dục của nhiều người thuộc mọi nền văn hóa thêm phóng túng và
xa rời các quan điểm truyền thống liên quan đến giá trị của tình yêu thủy chung
và hôn nhân bền vững. Đã đến lúc Giáo Hội canh tân những giáo huấn của mình và
can đảm diễn giải Tin Mừng về tình yêu, hôn nhân trong kế hoạch của Thiên Chúa
cho con người thời đại. Đó cũng là khoảng thời gian diễn ra công đồng Vaticano
II.
Tháng 9 năm 1979, chỉ vài tháng ngắn ngủi sau khi đăng quang
ngôi vị giáo hoàng, vị giáo hoàng của ngàn năm thứ ba – Đức Gioan Phaolô II đã
lần đầu tiên lên tiếng giảng dạy cho toàn thế giới biết quan điểm của Giáo Hội
về thân xác, hôn nhân và dục tính con người dựa vào Thánh Kinh. Hiểu được sức mạnh
và chiều sâu phong phú của các bài giảng này, chúng ta có thể ví chúng như một
quả bom nguyên tử có sức giải phóng tâm trí chúng ta khỏi các luồng tư tưởng của
các phong trào đương đại và đem lại một nền tảng vững chắc có khả năng định hướng
đời sống.
Vậy thì, Thần Học về Thân Xác là gì và tại sao đến bây giờ,
chúng ta vẫn còn quá ít khi nghe nói về nó? Món quà tuyệt đẹp này vẫn cần được
đón nhận và khám phá sau hơn 60 năm được lan truyền qua các buổi tiếp kiến
chung tại Rôma, đây không phải là một loạt bài ngẫu hứng của Đức Thánh cha mà
là một công trình được ấp ủ từ những năm tháng tuổi trẻ của vị linh mục Karol
Wojtyla.
3. Ý nghĩa hợp hôn của thân xác
Xuất phát từ câu trả lời của Đức Giêsu với người
Pharisêu: “Vì các ông lòng chai dạ
đá, nên ông Mô-sê đã cho phép rẫy vợ, chứ thuở ban đầu, không có thế đâu” (Mt
19, 8) mà Đức Thánh cha đã quay ngược về “thuở ban đầu” trong sách Sáng Thế để
tìm hiểu ý định của Thiên Chúa dành cho thân xác, tính dục và hôn nhân của con
người.
Hai trình thuật tạo dựng cho chúng ta biết, bước đi trên mặt
đất lúc bấy giờ đã có Ađam – con người đầu tiên được Thiên Chúa dựng nên. Mỗi
chiều chàng đi dạo với Thiên Chúa trong vườn Êđen nhưng dường như với chàng,
như thế vẫn là chưa đủ. Chàng mong muốn tìm trong số các thụ tạo kia một người
bạn tương xứng, chính vì thế mà Chúa đã tạo ra Evà. Người trợ tá tương hợp này
và người đàn ông đã cùng nhau khám phá ra ngã vị tính của mình và giá trị của
xác thân. Theo dõi cuộc hành trình của đôi vợ chồng đầu tiên, Đức Thánh cha
khơi lên ý nghĩa của các kinh nghiệm nguyên thủy mà ngài lần lượt đào sâu: kinh
nghiệm đơn độc nguyên thủy, kinh nghiệm hợp nhất nguyên thủy và kinh nghiệm trần
truồng nguyên thủy. Ba loại kinh nghiệm độc đáo này dựa trên các câu Kinh Thánh
đã giúp chúng ta hiểu về tình trạng con người trước thời kỳ sa ngã – một loại
hiểu biết mà ngày nay trong thân phận sau tội tổ tông, chúng ta không còn nếm cảm
được nữa.
Dọc theo cuộc phiêu lưu qua ba giai đoạn: con người thời
nguyên thủy, con người thời sa ngã và được cứu chuộc (con người lịch sử như
chúng ta nhận biết) và con người thời vinh hiển, Đức Thánh cha đã dày công
trình bày với chúng ta một cái nhìn thấu suốt đặc biệt về mặc khải của Thiên
Chúa dành cho thân xác và hôn nhân con người. Thân xác này có khả năng chuyển tải
vào thế giới những thực tại vô hình của mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa[2], nghĩa là làm hữu hình mầu
nhiệm vô hình của Ba Ngôi qua sự hiệp thông chặt chẽ và duy nhất của đôi vợ chồng,
hay nói một cách rộng lớn hơn, của tất cả những ai học biết yêu thương như
Thiên Chúa muốn. Sự hiệp thông này không phải trên bề mặt ý thức hay trừu tượng,
nó mạnh mẽ chỉ đến những hoạt động dục tính của xác thân, là cách mà con người
sử dụng năng lượng giới tính của mình để diễn tả tình yêu.
Đức Thánh cha nhấn mạnh rằng “con người đã trở nên giống hình ảnh Thiên Chúa không chỉ về mặt nhân
tính không thôi, mà còn về cả sự hiệp thông với những người khác, điển hình là
mối tương quan giữa người nam và người nữ kể từ lúc ban đầu” (buổi tiếp
kiến chung ngày 14 tháng 11 năm 1979). Khả năng thông hiệp này được khắc ghi
trong thân xác, được nhận biết vừa bởi sự giống nhau vừa bởi sự khác nhau giữa
người đàn ông và người đàn bà. Sự giống nhau giữa hai xác thân cho chúng ta thấy
sự bình đẳng và đồng nhất của họ về mặt nhân vị, qua lời thốt lên đầy kinh ngạc
của Ađam ngay từ lúc nhìn thấy Evà: “Phen
này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi!” (St 2, 23). Nhưng
cũng chính lúc đó, Ađam hiểu có gì khác biệt nơi thân xác người nữ kia và sự
khác nhau đó mời gọi ông cùng nàng thiết lập một mối quan hệ thân mật: nàng trở
nên một bổ túc cho ông và cả hai sẵn sàng để nên một xương một thịt (2, 24). Chính tại đây mà một trong những
khái niệm quan trọng nhất của Thần Học Thân Xác được hiển lộ: tính hợp hôn (hay
còn một cách dịch khác là tính hôn phối/tính hôn nhân) của thân xác con người.
Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II không ngần ngại dừng lại rất lâu trên giá
trị vô song này của thân xác mà ngài gọi là ý nghĩa hợp hôn: đó là “khả năng diễn tả tình yêu: là chính tình
yêu mà trong đó ngã vị trở thành một tặng phẩm và – nhờ tặng phẩm ấy – con người
thực hiện trọn vẹn ý nghĩa của hữu thể và hiện hữu của mình” (tiếp kiến
chung ngày 16 tháng 1 năm 1980). Ngã vị là tất cả những gì làm nên con người của
tôi, là mọi thứ ở trong và ở bên ngoài tôi, trọn vẹn thân xác và tâm hồn tôi.
Làm thế nào để tất cả mọi sự nơi tôi đều có khả năng diễn tả tình yêu? Sau tội
tổ tông thì điều đó đòi hỏi một cuộc huấn luyện trường kỳ. Chúng ta phải có tự
do và khả năng tự chủ để học cách trở nên một món quà. Và Đức Thánh cha nói món
quà tình yêu này không phải ở trên bình diện tinh thần hoặc đạo đức, ý tưởng.
Đó là và phải là món quà của thân xác[3],
thân xác trở nên một phạm trù đặc biệt để thông truyền tình yêu, để thiết lập mối
hiệp thông liên vị. Một mối hiệp thông chỉ có được khi cả hai người tự hiến cho
nhau trong sự hiểu biết lẫn nhau cách sâu xa và cụ thể. “Sự hiệp thông liên vị ấy được xác lập từ
bên trong, nhưng đồng thời bao gồm tất cả cái bên ngoài của con người, nghĩa là
toàn thể thân xác trần truồng đơn sơ và tinh khiết của người nam và người nữ” (ngày
16 tháng 1 năm 1980). Quả vậy, sự âu yếm và các cách diễn tả tình yêu qua thân
xác là một kế hoạch của Thiên Chúa dành cho con người: chính trong hành vi kết
hợp của hai thân xác người nam và người nữ, mầu nhiệm hiệp thông của Ba Ngôi
Thiên Chúa được tỏ lộ.
Dĩ nhiên không phải bất cứ hành vi tính dục nào cũng đạt đến
vẻ đẹp cao cả ấy cũng như hôn nhân không phải là thực tại duy nhất nơi mối hiệp
thông liên vị có thể diễn ra. Thân xác vẫn mang tính hợp hôn cho dù chủ thể lựa
chọn đời sống nào đi nữa. Khi xét đến mối quan hệ nam nữ, Đức Thánh cha muốn đơn
cử một trường hợp điển hình nhất nơi mối hiệp thông liên vị có thể và được kêu
mời để diễn ra. Trước khi dục vọng bước vào thế giới qua sự gãy đổ của tương
giao đầu tiên, ông Ađam và bà Evà không phải vất vả để tìm cách thông hiểu lẫn
nhau như chúng ta ngày nay. Tình yêu thuở ban đầu đã gói trọn trong nó nét tinh
khôi không vương tỳ ố: sự tự do nội tâm của mỗi bên và khả năng tự hiến của họ.
Khi hai ông bà nguyên tổ nhìn thấy nhau, họ khao khát kết hợp
với nhau nhưng lòng muốn này được đặt dưới tính tự chủ của họ. Người này không
nhìn người kia như vật dụng để thỏa mãn ham muốn của mình. Họ nhìn thấy người
kia trong phẩm giá của người đó, một ngôi vị trọn vẹn mà họ phải nâng niu kính
trọng. Chính khi khám phá ra nữ tính của người phụ nữ, người đàn ông hiểu rằng
nàng là ai đối với mình và sự thông hiểu này giúp chàng nhận thức về nam tính của
chàng. Cũng như nàng sẽ nhận ra chàng là ai đối với mình. Mỗi người nhận biết
người bạn kia là một món quà dành cho mình và chính mình cũng là một tặng phẩm
dành cho người kia. Một sự tự hiến như thế xuất phát từ tự do và khả năng diễn
tả yêu thương của đôi bên, đem lại cho họ sự vui thỏa tràn đầy và sâu lắng.
Tuy nhiên, trong ý định của Thiên Chúa, tặng phẩm hồng phúc
đó phải chịu thử thách để lớn lên. Chính khi thất bại trong việc bảo vệ nương tử
của mình dưới sự đe dọa của Satan hay con rắn xưa, người đàn ông chứng kiến sự
đổ vỡ trong mối tương giao giữa mình và người phụ nữ – trợ tá tương xứng của
ông. Từ nay, thân xác gặp khó khăn khi muốn diễn đạt tình yêu mà nó chứa đựng.
Họ phải nếm trải đau khổ và gian nan trước khi học được cách thế tự hiến cho
nhau trong vô cầu và tự do như thuở ban đầu.
Trong phạm vi của bài viết này, người viết không có tham vọng
trình bày tất cả nội dung của Thần Học Thân Xác một cách đầy đủ và hệ thống. Những
nét chính yếu được phác họa ở đây sẽ giúp chúng ta nhìn vào bản tình ca của Diễm
Ca một cách dễ dàng thuận lợi hơn, như mục đích ban đầu của bài viết. Sau đây sẽ
là phần triển khai ý nghĩa của sách Diễm Ca dưới cái nhìn của Thần Học Thân
Xác: tình yêu say đắm của đôi nam nữ và ý nghĩa hợp hôn của thân xác trong tình
yêu giữa họ.
4. Một cuộc khởi hành đi vào nhân tính
Chẳng những không đứng ngoài mà còn tiếp nối nguồn mạch tuôn
trào của trình thuật trong Sáng Thế về con người, sách Diễm Ca cho chúng ta thấy
vẻ đẹp của thứ ngôn ngữ giàu cảm xúc và phong phú của tình yêu. Đó là một lăng
kính khác, lăng kính của thơ ca trữ tình, soi vào kinh nghiệm của cặp vợ chồng
đầu tiên trong thời nguyên thủy, sau khi được mô tả một cách súc tích trong Sáng
Thế chương 2, câu 23 đến 25[4] thì nay, trong Diễm Ca,
đã bừng nở ngời sáng dưới ngòi bút của một thi sĩ tài tình.
“Ước gì chàng hôn ta
những nụ hôn chính môi miệng chàng! Ân ái của anh ngọt ngào hơn rượu… Hãy kéo
em theo anh, đôi ta cùng mau bước!… Ngài sẽ là nguồn hoan lạc vui sướng của
chúng em. Ân ái của ngài chúng em quý hơn rượu. Thương yêu ngài phải lẽ biết
bao nhiêu!” (Dc 1, 2.4)
Lời mở đầu này của các thiếu nữ như một vũ điệu đầy hấp dẫn
diễn ra trong nghi lễ của một đám cưới. Lời lẽ không xa xôi phỏng đoán mà đề cập
thẳng vào vấn đề trung tâm: tình yêu say đắm không ngần ngại bày tỏ khao khát
sát gần và kết hợp nên một. Đức Giáo hoàng cho rằng chính tại đây mà sự ngây ngất của Ađam
trong Sáng Thế khi nhìn thấy Eva đã được diễn tả lại dưới một ngôn ngữ khác đầy
chất thơ. Hai người nam và nữ lần lượt ca tụng vẻ đẹp của nhau qua những đoạn đối
đáp cân xứng chứa đựng sự kinh ngạc và tán thưởng:
– Nàng đẹp quá, bạn
tình ơi, đẹp quá!
Đôi mắt nàng là một cặp
bồ câu.
– Người yêu ơi, anh đẹp,
anh tuấn tú làm sao!
Giường chúng ta là
cánh đồng xanh ngát. (1, 15-16)
….
– Bạn tình tôi giữa
đoàn thiếu nữ
Có khác gì cánh huệ giữa
bụi gai.
– Người yêu tôi giữa
đoàn trai tráng
Như cây táo giữa muôn
cây rừng. (2, 2-3)
Đây là kinh nghiệm đầu tiên về vẻ đẹp của thân xác mà đôi bạn
cảm nghiệm được khi nhìn nhau như đối tượng độc nhất của tình yêu trong lòng
mình. Nếu chỉ dừng lại ở đây, sách Diễm Ca sẽ như một bài thơ tình tuy chếnh
choáng say mê nhưng bình thường giữa muôn vàn bài thơ khác ca tụng tình yêu nhục
dục. Điểm đặc biệt là chàng bắt đầu dùng các hô ngữ và diễn ngữ để diễn tả nàng
là ai đối với chàng và ngược lại:
“Hỡi bạn tình của lòng
anh, anh ví nàng như con tuấn mã…” (1,9)
“Dậy đi em, bạn tình của
anh, người đẹp của anh, hãy ra đây nào…” (2, 10)
Hô ngữ “bạn tình ơi” (appellativo) được dịch khác nhau trong
nhiều bản dịch. So sánh với bản dịch hiện tại được dùng trong phụng vụ một số
nước nói tiếng Anh như Hoa Kỳ, The New American Bible (Revised Edition) đã chuyển
ngữ cụm từ này thành hô ngữ “my friend”. Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã phân tích rằng
chàng trai đã nhận thức cô gái – người yêu của anh – trước hết như một người bạn
đối với chàng. Tình bạn này cho chàng trai thấy người con gái đồng đẳng với
chàng về mặt nhân tính, như một con người khác bên cạnh chàng với phẩm vị và
cái tôi tuy khác biệt nhưng giống như chàng. Nàng đúng là “xương bởi xương
chàng, thịt bởi thịt chàng” và được tạo nên từ xương sườn của chàng để bước đi
bên cạnh chàng như một người bạn, một người thấu hiểu và san sẻ cuộc sống cùng
chàng trong một giao ước bình đẳng và dài lâu của tình yêu. Nghĩa bằng hữu này
trong sách Diễm Ca mang một sắc thái gần gũi đặc biệt như một nền tảng chung nhất
giữa chàng và nàng từ bên trong, kêu gọi họ tiếp tục khám phá bản chất của nhau
sau những say sưa về vẻ đẹp bên ngoài.
Tiếp tục trong dòng chảy nhịp nhàng của bài thơ, diễn ngữ “này em gái của anh, người yêu anh sắp cưới” (4,9)
gây ấn tượng mạnh mẽ. Người em gái, một tương quan tình cảm ruột thịt như trong
gia đình, lại là hiền thê, đem lại cho chúng ta những cảm nhận về chiều sâu nhận
thức của chàng trai.
Đối với chàng, nàng như thể là người chị em cùng cha cùng mẹ,
nên chàng và nàng thân thiết nhau bởi sự kết nối như chung một gia phả. Tình cảm
gia đình được diễn tả ở đây như một cách để nói lên cảm giác an toàn, bình yên
và êm đềm giữa hai người yêu nhau. Vì nàng được gọi lên âu yếm và ý nhị như em
gái, nên chàng đối xử với nàng như người anh trai. Điều này là một thách thức
dành cho chàng. Chàng phải bảo vệ và che chở nàng, không bao giờ làm nàng sợ
hãi trước sức mạnh hay quyền lực hay bất cứ giá trị nào có trong nam tính và vị
thế xã hội của chàng. Họ ước có thể tự do bộc lộ tình thân thiết mà không sợ bị
dị nghị dèm pha: “phải chi anh là anh ruột
của em, đã được mẹ em nâng niu bú mớm” (8,1), bởi trong ước muốn và
cách hành xử, chàng coi nàng như người em thân yêu, nàng coi chàng như anh trai
một nhà, đó là một mối gắn bó mà cả hai đạt được trong sự phát triển của tình
yêu giữa họ.
Tại đây chúng ta khám phá ra ý nghĩa của khái niệm “sự bình
yên thể xác” mà Đức Giáo hoàng đã nhiều lần nhắc đến khi diễn giải sách Sáng Thế: “họ nhìn nhau và thấu hiểu nhau với cái nhìn
nội tâm hoàn toàn bình an, đó vốn chính là điều tạo ra sự thân mật viên mãn giữa
các ngôi vị” (tiếp kiến chung ngày 02/01/1980). Sự bình an này diễn ra
khi họ nhìn nhau qua chính mầu nhiệm
tạo thành, nơi mọi sự đều tốt đẹp như Lời Thiên Chúa phán. “Như thế, tự trong lòng mình, người đàn ông
đón nhận nàng; đón nhận nàng như nàng được Đấng Tạo Hóa thương yêu tạo dựng nên
vì chính nàng, như là hình ảnh mầu nhiệm của Thiên Chúa thiết lập nơi nữ tính của
nàng. Và ngược lại, người đàn bà cũng đón nhận người đàn ông theo cùng một cách
thức…” (16/01/1980). Sự bình yên tuyệt đẹp này như trong một giấc mơ,
khi nàng nói đến lòng ưng thuận của nàng đã được chàng trân trọng, nâng
niu: “xin đừng lay vội, đừng đánh thức
tình yêu, cho đến khi tình yêu ưng thuận” (8,4). Và quả thực, nhờ cuộc
gặp gỡ trong tình huynh đệ đó mà nàng có thể thốt lên: “nên em là nguồn bình an cho chàng” (8,10)
(diễn giải trong bài giảng của Đức Thánh cha: “trước mắt chàng, em đã như người
gặp được bình yên”).
Cả hai đều cảm thấy yên tâm vì cái nhìn của họ về nhau không
hàm chứa sự chiếm hữu hay tham lam ngấu nghiến. Làm thế nào để chúng ta có thể
hiểu được điều này khi nhìn vào cách người ta diễn đạt tình yêu trong những mối
quan hệ thân mật thường được biểu diễn trên sóng truyền hình? Chỉ khi ngừng
tiêu thụ thể xác như một món đồ đem lại khoái cảm, nhìn nhận người yêu như một
người anh chị em trong nhân loại, một người bạn trong nhân tính, nghĩa là trở về
với nội dung Kinh Thánh đã dạy chúng ta trong các sách từ khởi thủy, mới có thể
hiểu được tình yêu an bình được Thiên Chúa mời gọi từ trong những rung động mạnh
mẽ của thân xác con người.
Những đoạn nói về anh và em như anh trai và em gái đã từng
được nhắc đến nhiều trong các bản văn chú giải của Thánh Gioan Thánh Giá và một
số nhà thần bí khác. Các vị đã nhắc đến hình ảnh người nam và người nữ ở đây được
coi như anh em một nhà cho thấy sự bình đẳng giữa linh hồn được chúc phúc và
Thiên Chúa trong cuộc linh phối. Sự chiêm nghiệm này không làm giảm nhưng bổ
sung thêm cho các tầng nghĩa phong phú của bản văn. Trong khi đó, cái nhìn của
Thần học Thân Xác cũng cho thấy chiều sâu suy tư đặc biệt và độc đáo khi liên kết
trình thuật sách Sáng Thế với các chất liệu từ ngữ cũng như văn mạch của Diễm
Ca.
5. Đứng trước mầu nhiệm thân xác
Tình yêu say đắm nhưng không xâm phạm còn cho thấy vẻ đẹp
huyền bí của nó trong những diễn ngữ khác. Chàng trai không ngừng gọi cô gái bằng
những hình ảnh nói lên nhiều ý nghĩa:
“Em là khu vườn cấm,
là dòng suối canh phòng nghiêm mật,
Là giếng nước niêm
phong”. (4,12)
Những hình ảnh thi vị này không phải chỉ là những cách gọi
hoa mỹ của văn chương thời xưa. Trái lại, nơi đây ẩn chứa cả một mầu nhiệm của
đôi uyên ương mà Đức Thánh cha cho rằng chúng mang giá trị chủ chốt của bài
thơ. Vị hôn phu gọi người vợ chưa cưới của chàng là “khu vườn cấm, là giếng nước
niêm phong”, những hình ảnh gợi lên thái độ kính cẩn trước một điều gì đó rất đẹp
nhưng còn ẩn kín. Chàng đã ngắm nhìn nàng không biết bao nhiêu lần, nhưng vẫn
còn điều gì đó thuộc về nàng mà chàng không dám vén mở trước khi thời điểm đến.
Chàng rể đứng đó trước mầu nhiệm nữ tính của nàng, công nhận nàng là bà chủ của
chính mình và là một chủ thể tự do, độc đáo trước tình yêu đầy kính trọng của
chàng. Đức Thánh cha giải thích “có thể
nói rằng cả hai ẩn ngữ đều diễn tả phẩm giá ngôi vị của người phụ nữ, xét như là
chủ thể thiêng liêng sở hữu và có thể quyết định không chỉ chiều sâu siêu hình,
mà còn cả sự thật cốt yếu và tính chân thực của sự tự hiến, hướng tới sự kết hợp
ân ái mà sách Sáng Thế nói đến” (tiếp kiến chung ngày 30 tháng 5 năm
1984).
Đến lượt nàng, cảm nhận được tình yêu tôn trọng của chàng,
nàng đáp trả lại với tư cách là bà chủ của chính mầu nhiệm của nàng, một cách tự
do và trìu mến: “Người yêu tôi thuộc
trọn về tôi và tôi trọn vẹn thuộc về chàng” (2,16). Ý thức thuộc trọn
về nhau này được cất lên từ miệng của vị hôn thê đã nói lên sự trao hiến như một
món quà: nàng nhận từ chàng tình yêu tôn trọng đầy kính cẩn, và đến lượt nàng,
nói lên tặng phẩm dành cho chàng là chính nàng:
“Người yêu tôi cứ vào
vườn của chàng
Mà thưởng thức hoa
thơm trái tốt.” (4, 16)
Nàng không bị ép buộc để thuộc về chàng, cũng như chàng
không coi nàng là vật sở hữu. Trong những thế kỷ đầu tiên khi người vợ còn là
tài sản của người chồng, và phụ nữ bị coi như những món hàng để đổi chác, cái
nhìn tự chủ và tự trao hiến trong tình yêu của Diễm Ca như mở ra một cánh cửa
hoàn toàn mới cho tình yêu nhân bản theo kế hoạch của Thiên Chúa. Vị lang quân
và hôn thê hiện hữu vì nhau và cho nhau, họ cùng nhau khám phá ra bản chất của
cái tôi toàn vẹn và tự chủ, cùng học cách trao ban cho nhau chính thân xác cùng
trọn linh hồn họ, cùng lớn lên trong một tình yêu hỗ tương và chân thực.
Cuộc dấn thân cho tình yêu này thu hút trọn vẹn con người của
đôi bên, từ đôi mắt đến con tim, nhưng cũng không dừng lại ở đó. Có một điều gì
đó phủ tràn trên tác phẩm, những dòng thơ man mác mô tả một cuộc tìm kiếm không
ngừng. Họ mãi hướng tới một điều gì còn lớn hơn tình yêu an tâm đã nảy sinh giữa
họ. Họ không bao giờ thấy họ đã biết đủ về người kia, hay là đã có được người
yêu dấu của mình ở trong tay và thôi không còn mong đợi gì nữa. Cuộc tìm kiếm
này được đóng dấu trên sự ân cần lo lắng của họ dành cho nhau và một thứ khao
khát nội tâm cứ giằng xé không ngừng từ bài ca đầu tiên và rải đến tận những
dòng thơ cuối:
“Hỡi người yêu, người
lòng em yêu dấu
Hãy nói em nghe anh
chăn cừu ở đâu,
Đàn cừu ấy nghỉ nơi
nao vào ban trưa giờ ngọ,
Để em đây khỏi lang
thang thất thểu
Bên đàn vật của các bạn
anh…” (Bài ca thứ nhất: 1, 7)
“Suốt đêm, trên giường
ngủ, tôi tìm người lòng tôi yêu dấu.
Tôi đi tìm chàng mà
đâu có gặp!
Vậy tôi sẽ đứng lên,
đi rảo quanh khắp thành,
Nơi đầu đường cuối phố,
để tìm người yêu dấu của lòng tôi.
Tôi đi tìm chàng mà
đâu có gặp…” (Bài ca thứ hai: 3, 1-2)
“Tôi mở cửa cho người
tôi yêu,
Nhưng chàng đã quay đi
khuất dạng.
Chàng đi rồi, hồn tôi
như đã mất,
Tôi đi tìm chàng mà
đâu có gặp,
Tôi mãi gọi chàng,
không một tiếng đáp…” (Bài ca thứ tư: 5,6)
Hoặc
“Này thiếu nữ
Giêrusalem, tôi van nài các bạn:
Gặp người tôi yêu dấu,
các bạn sẽ cho biết tin gì?
Xin cho nhắn rằng: tôi
đang ốm tương tư.” (5,8)
Cuộc tìm nhau này thuộc chiều kích nội tâm và là một thực tại
hiển nhiên trong tình yêu nhân loại. Cảm nhận băn khoăn trằn trọc và tha thiết
cho thấy tình yêu thổn thức chờ đợi lẫn nhau trong từng giây phút và khát mong
đạt đến sự hoàn hảo của nó không phải chỉ một thời khắc mà là mãi mãi. Chắc chắn
rằng cảm nghiệm này vượt lên trên giới hạn của dục tình, như Đức Thánh cha nói,
và tình yêu đòi vươn cao đến vẻ đẹp toàn diện, tinh khôi không vương tỳ ố, vẻ đẹp
hòa quyện của thân xác và linh hồn. Cho dù những động năng của lòng ham muốn mạnh
mẽ được thỏa mãn đến đâu, cho dù tình yêu chung thủy và duy nhất được ký kết giữa
đôi bạn, nhưng vẫn mãi còn một điều gì đó khiến con người băn khoăn thao thức
ngay giữa lúc hạnh phúc và hoan lạc bừng nở, một nỗi lo âu thuộc bản chất của
ái tình. Nó kêu gọi đôi tân hôn nhìn lên cao, vượt lên chính họ trong mối quan
hệ yêu thương, mà hướng đến nguồn cội của chính tình yêu là Thiên Chúa, Đấng vẫn
có quyền trên trái tim được Ngài tạo dựng. Nỗi trống vắng kia như thể đã đi vào
mọi ngóc ngách của cảm nghiệm con người và hóa ra phổ quát đến độ ta có thể tìm
thấy ở mọi nền văn hóa trong mô tả về tình cảm yêu đương:
“Em lo âu trước xa tắp
đường mình
Trái tim đập những điều
không thể nói
Trái tim đập cồn cào
cơn đói
Ngọn lửa nào le lói giữa
cô đơn…” (Tự hát, Xuân Quỳnh)
Và đâu chỉ là người nữ âu lo kiếm tìm, cả chàng trai cũng
thao thức không ngừng:
“Em đã biết cõi đời
anh
Anh không giấu em một
điều gì cả,
Chính vì thế mà em
không bao giờ hiểu biết hết về anh…
Nhưng than ôi! Đời anh
là một trái tim
Nào ai biết được bến bờ
của nó
Em là nữ hoàng của
vương quốc đó
Thế mà em có bao giờ
biết được biên giới của nó đâu.
….
Trái tim anh ở gần em
như chính cuộc đời em vậy
Nhưng chẳng bao giờ em
biết trọn nó đâu.”
(Bài thơ số 28 trong tập “Người làm vườn”, Rabindranath
Tagore)
Trong tâm trạng kiếm tìm sự lấp đầy của mọi thao thức này, mỗi
người nổi lên như một đối tượng độc lập và duy nhất, không thể đồng hóa cũng
như không thể chiếm hữu. Họ là một nhưng cũng là hai. Tình yêu làm cho họ quấn
quýt lấy nhau và nên một trong thân xác lẫn tinh thần, nhưng cũng chính tình
yêu dạy cho họ khám phá ra ngôi vị của mỗi người vẫn là duy nhất và mênh mông,
vượt lên trên mọi tham muốn đồng hóa hay chiếm hữu:
“Dầu tin tưởng: chung
một đời, một mộng
Em là em, anh vẫn cứ
là anh
Có thể nào qua Vạn Lý
Trường Thành
Của hai vũ trụ chứa đầy
bí mật.” (Xa cách, Xuân Diệu)
Suy tư về nỗi xao xuyến của đôi hôn phu – hôn thê trong Diễm
Ca, Đức Thánh cha kết luận rằng “họ
sẽ mỗi ngày một xác tín sâu xa hơn rằng tầm cỡ rộng lớn của việc hai người thuộc
về nhau là quà tặng họ dành cho nhau trong đó tình yêu tỏ hiện “mãnh liệt như tử
thần”, nghĩa là nó vươn lên đến những giới hạn sau cùng của ngôn ngữ thân xác để
rồi vượt qua chúng” (bài giảng ngày 6 tháng 6 năm 1984). Vượt qua bằng
cách mãi mãi tôn trọng cái giới hạn của cả hai trong việc diễn tả tình yêu và
trung thành sống với nhau ngày này qua ngày khác để trao ban và học cách trao
ban cho nhau như một món quà. Tình hiệp thông giữa họ – như một hoa trái của
tình yêu nhục cảm (eros) và tình bạn chân chính (philia) – sẽ cần lớn mạnh và mở
rộng ra đến các chiều kích của tình yêu tự hiến (agape) mà sẽ được mạc khải
trong Tin Mừng và các Thư của Thánh Phaolô. Tình yêu này sẽ không đóng khung
trong mái nhà của đôi bạn mà sẽ mở bung ra đến các khung trời khác của tha nhân
và phục vụ người khác vì lợi ích của họ. Đó là lời mời gọi mà Đức Giêsu sẽ đến
để sống và để rao giảng cho chúng ta.
6. Thay lời kết
“Mối quan hệ tính dục
– mối quan hệ của người nam đối với người nữ và người nữ đối với người nam – là
nền tảng sâu xa nhất của đạo đức và văn hóa nhân loại” (Xem TOB 45:3).
Nếu người nam và người nữ thật sự đáp lại lời kêu gọi trong lòng họ để sống sự
hiệp thông liên vị theo ý định nguyên thủy của Đấng Tạo Hóa, họ sẽ kinh nghiệm
được tình yêu đích thực và bền lâu, đem lại hài lòng và hạnh phúc như ước nguyện
ban đầu. Xa hơn thế nữa, họ sẽ quyết định đến việc kiến tạo một xã hội biết
trân trọng phẩm giá con người. Đôi bạn trong sách Diễm Ca đã bắt đầu và đang trên
hành trình hướng tới tình yêu vĩnh cửu mà họ khao khát. Bằng việc nhìn vào kinh
nghiệm của họ, con người thời nay có thể hiểu được tầm quan trọng của việc học
biết yêu thương và huấn luyện trái tim thành một nơi sẵn sàng cho tình yêu đơm
hoa kết trái. Một chút giới thiệu về Thần Học Thân Xác qua bài ca tình yêu của
Cựu Ước nhưng không hề xưa cũ, khuyến khích chúng ta tìm hiểu và đào xuống sâu
hơn trên nguồn mạch của những suy tư về mầu nhiệm thân xác được cứu chuộc – vốn
đã được ban tặng cho chúng ta từ Đức Kitô, để làm hành trang trên con đường hẹp
dẫn về quê Trời.
Tài Liệu Tham Khảo:
1. Gioan Phaolô II. Thần
Học Về Thân Xác – Tình yêu phàm nhân trong kế hoạch thần linh. Luy Nguyễn
Anh Tuấn dịch. NXB Tôn Giáo, 2016.
2. Gioan Thánh Giá. Ca
Khúc Tâm Linh. Nguyễn Uy Nam và Lm Trăng Thập Tự dịch. NXB Phương Đông,
2018.
3. West, Christopher. Heaven’s Song – Sexual Love as it was Meant to Be. Ascension
Press, 2008.
Nguồn: xuanbichvietnam.net (12.03.2021)
[1] Những chi tiết này diễn giải lại từ những chú thích lượm lặt
trong sách “Thần học thân xác: Tình yêu phàm nhân trong kế hoạch thần linh – Sự
cứu chuộc thân xác và tính bí tích của hôn nhân trong các huấn giáo ngày thứ Tư
(1979 – 1984)”, Gioan Phaolô II, Luy Nguyễn Anh Tuấn dịch, NXB Tôn Giáo.
[2] “Thân xác và chỉ có thân xác mà thôi mới có thể làm cho những
gì là vô hình, thiêng liêng và thần linh trở thành hữu hình. Thân xác được tạo
dựng nên để chuyển thông vào thực tại hữu hình của thế giới này mầu nhiệm vô
hình ẩn giấu nơi Thiên Chúa tự muôn thuở, và như thế nó trở thành một dấu chỉ của
thực tại vô hình kia” (20/02/1980).
[3] Thân xác không hiển nhiên là một ngã vị nhưng nhờ thân xác
mà con người ý thức về tình trạng của mình trong sự cô độc hay nối kết với các
sinh vật khác, giúp con người kinh nghiệm được ngã vị tính của họ. Nói cách
khác, thân xác diễn tả ngã vị.
[4] “Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi….
Con người và vợ mình, cả hai đều trần truồng mà không xấu hổ trước mặt nhau”.
- Các bí quyết của một hôn nhân hạnh phúc: 05 – Bí quyết gần gũi qua những việc nhỏ ( 18/04/2021)
- Sứ điệp của Đức thánh cha Phanxicô nhân dịp khai mạc Năm “Gia đình Amoris laetitia” ( 14/04/2021)
- Gia đình: Linh ảnh của Lòng thương xót ( 10/04/2021)
- Gia đình Công giáo tại Châu Á: Hội thánh tại gia của người nghèo thi hành sứ vụ thương xót ( 30/03/2021)
- Sứ vụ của các gia đình Kitô hữu hôm nay - Bí tích của lòng thương xót ( 23/03/2021)
- Các bí quyết của một hôn nhân hạnh phúc: 04 – Bí quyết bàn thạch ( 15/03/2021)
- Tòa Thánh khai mạc Năm “Gia đình Amoris Laetitia” ( 11/03/2021)
- Định hướng cho việc giáo dục giới tính trong gia đình, nhà trường và giáo xứ ( 07/03/2021)
- Hướng dẫn mục vụ cho những người đã ly thân hay ly dị và sống chung bất hợp luật ( 25/02/2021)
- Để tha thứ cho nhau trong gia đình đừng quên 9 điều này! ( 24/02/2021)