TÌM HIỂU SÁCH GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO
Phần III:
ĐỜI SỐNG MỚI TRONG ĐỨC KITÔ
Bài 31. TÔN GIÁO
KHÔNG PHẢI LÀ CHUYỆN RIÊNG TƯ
Điều răn thứ nhất đòi
buộc chúng ta phải thờ phượng Chúa như Ngài xứng đáng. Trong tiếng La tinh,
thái độ và nhân đức này được gọi là Religio
và dịch sang tiếng Việt là Tôn giáo.
Tôn giáo được biểu lộ qua những hành vi thờ phượng, bên trong cũng như bên
ngoài. Những hành vi đó thể hiện sự lệ thuộc của chúng ta vào Thiên Chúa, làm
sống động mối liên hệ của chúng ta với Chúa, và diễn tả lòng biết ơn của chúng
ta với Ngài.
Thái độ nền tảng của tôn giáo là thờ lạy, tận hiến chính mình
cho Thiên Chúa. Qua thái độ này, chúng ta nhìn nhận tính hư không của mình, đón
nhận mọi sự từ Chúa (GLHTCG số 2097).
Cầu nguyện là cách diễn
tả hồn nhiên và rõ ràng tâm tình thờ phượng, là nơi bày tỏ lòng đạo. Không có
cầu nguyện, tính tôn giáo nơi con người sẽ chết và mối quan hệ với Thiên Chúa
sẽ nhạt nhòa.
Cũng thế, hy lễ là cách
diễn tả tâm tình tôn giáo, dấu chỉ lòng đạo. Để là hy lễ đích thực, điều quan
trọng là hy lễ bên ngoài phải phù hợp với tâm tình bên trong (số 2100).
Tôn giáo và những hình
thức diễn tả là thái độ của con người toàn diện, xác và hồn. Đây không phải là
chuyện riêng tư, vì chúng ta là những hữu thể xã hội. Tiếng thưa “Vâng” hoặc
“Không” của chúng ta với Thiên Chúa đều có ảnh hưởng đến đời sống công cộng, kể
cả khi chúng ta cầu nguyện nơi kín đáo.
Thế kỷ 20 cho thấy chủ
thuyết vô thần cá nhân đã đem lại những hậu quả nào khi nó trở thành hệ tư
tưởng chính thức của Nhà nước (số 2023). Khi đó người ta không chấp nhận tôn
giáo, kể cả như chuyện riêng tư, và một hành vi thờ phượng cũng có thể bị coi
là tội phạm chính trị. Thế nhưng chính điều đó cho thấy rõ ràng là ngay cả việc
cá nhân thi hành bổn phận tôn giáo cũng có ý nghĩa công cộng. Tôn giáo mang
tính cá nhân nhưng không phải là chuyện riêng tư, vì tôn giáo được diễn tả qua
những hành động hữu hình và có ảnh hưởng đến đời sống cộng đồng.
Như thế, phải chăng xã
hội và Nhà nước bị bó buộc phải thực hành tôn giáo? Trong những xã hội đa
nguyên ngày nay, ý tưởng về quốc giáo đã là chuyện lỗi thời. Vậy phải chăng Nhà
nước phải dẹp bỏ mọi tôn giáo? Nhà nước không thể hủy diệt tôn giáo vì như thế
là hủy diệt cả nền tảng của đời sống cộng đồng. Kinh nghiệm 80 năm Cộng sản ở
Liên Xô cũ đã cho thấy. Vậy phải chăng Nhà nước nên dùng mọi phương tiện có thể
để thúc đẩy người ta đón nhận tôn giáo chân chính là Kitô giáo? Công đồng
Vatican II đã bác bỏ cách nhìn này và đã trình bày quan điểm về tự do tôn giáo.
Trong giới hạn chính
đáng (số 2109), Nhà nước phải tôn trọng và bảo vệ tự do của các cá nhân cũng
như hiệp hội, khi họ sống và hành động phù hợp với lương tâm của họ, nhất là
trong các vấn đề tôn giáo, cũng như khi họ truyền đạo mà không dùng áp lực hoặc
cưỡng ép bất cứ ai.
Sự kiện những giáo phái
đang lan rộng trên khắp thế giới ngày nay đang đặt ra vấn đề là: tự do tôn giáo
có thể đi xa tới mức nào để không gây tổn hại cho công ích? Những hiệp hội nào
đáng được gọi là Giáo hội và Tôn giáo, và được chính thức nhìn nhận? Chính
những câu hỏi đó lại cho thấy tôn giáo không hề là chuyện riêng tư.