Thiên Chúa trong thời đại vô thần

25/11/2017

THIÊN CHÚA TRONG THỜI ĐẠI VÔ THẦN

Leszek Kolakowski

Dịch giả: Tú Ân

Dịch từ bản dịch tiếng Anh của Frederic Fransen:

God In A Godless Time, đăng trên Tạp chí The Firsthings, Tháng Sáu, 2003:

https://www.firstthings.com/article/2003/06/visions-of-eternity-7


Nếu có ai đó hỏi rằng: “Mọi thứ liên hệ với ‘Vấn đề Thiên Chúa’ như thế nào?” thì nhiều người trong chúng ta sẽ có khuynh hướng trả lời ngay lập tức rằng: “Liệu đó có phải là vấn đề thực sự hay không?” “Dĩ nhiên là không!” là câu trả lời của các nhà duy lý và khoa học cực đoan -những người tuyên bố rằng không thể trình bày khái niệm về Thiên Chúa theo cách thức như một lời giải thích có thể hiểu được, không mâu thuẫn và thuộc về lý trí. Trước khi hỏi về “Vấn đề” đó, chúng ta buộc phải biết vấn đề đó nói về điều gì. Do đó, chúng ta phải làm rõ khái niệm về Thiên Chúa trước khi đưa ra những phát biểu như là “Thiên Chúa hiện hữu” hay “Thiên Chúa không hiện hữu” hay “Thiên Chúa có hiện hữu không?” như vậy những phát biểu ấy mới có thể được xem là những đối tượng của suy tư. Tuy nhiên, điều này là không thể. Mỗi phát biểu trừu tượng về Thiên Chúa vừa mâu thuẫn vừa không thể hiểu được như là một vấn đề nguyên lý, bởi vì không có cách nào liên hệ những phát biểu ấy với thực tại của kinh nghiệm. Bởi vậy, “Vấn đề” ấy trống rỗng.

Nhưng có thể có một số tín hữu không bao giờ băn khoăn về “Vấn Đề Thiên Chúa”, bởi vì họ là những người giữ vững niềm tin một cách kiên trung và không thể lay chuyển. Họ biết chắc chắn rằng họ sống trong một thế giới được Thiên Chúa điều khiển. Và đối với những linh hồn được tuyển chọn này, những người có được phúc lành trải qua kinh nghiệm thần bí, thì có thể thuật ngữ “niềm tin” là không thích hợp. Vì niềm tin chỉ hoạt động khi có một khoảng cách hay bóng tối khiến cho con người cảm thấy có khả năng không chắc chắn. Trong kinh nghiệm thần bí, tất cả mọi khoảng cách đều bị xoá bỏ. Do đó, một cách tự nhiên, những nhà thần bí này không bao giờ đặt ra cho chính mình câu hỏi về “Vấn đề Thiên Chúa”.

Ngoài ra, những người vô thần cực đoan, nếu có những người như vậy, cũng không thể có bất cứ câu hỏi về “Vấn đề Thiên Chúa.” Họ biết một cách xác tín hoàn toàn rằng khoa học đã loại trừ Thiên Chúa ra khỏi thế giới một cách đầy thuyết phục và chắc chắn, và dung mạo của Thiên Chúa chỉ là một diễn tả về những gì còn sót lại của mê tín dị đoan và ngu muội, hay của một cơ chế phòng vệ về mặt tâm lý, hay những xung đột xã hội.

Tuy nhiên, thế giới mà chúng ta đang sống không chỉ bao gồm những người tin và không tin, mãn nguyện và hài lòng. Hầu hết chúng ta, đều giống như người Do Thái xưa kia, đang lang thang phiêu bạt trên hành trình tìm kiếm miền đất hứa. Trên đường lữ hành này, chúng ta không tìm thấy điều gì chắc chắn, không có gì được bảo đảm, không có gì có nền tảng vững chắc.

Một vị Thiên Chúa, Đấng đã xác định trật tự các giá trị, các tương quan xã hội, các quy luật tư tưởng và các vũ trụ vật lý, đã tồn tại trong một khoảng thời gian lâu dài và là Đấng được cho là mái vòm vượt lên trên trật tự này, giờ đây mái vòm ấy không còn nữa bởi vì trật tự ấy cũng không còn thấy nữa. Bao lâu con người còn tin tưởng tính chất lâu bền của trật tự này, thì khi ấy vô thần vẫn có chỗ đứng trong đó (Tôi chỉ đề cập đến nền văn minh Kitô giáo Châu Âu). Cho dù họ bị xem là sai lầm, điên khùng, hay là sứ giả của hoả ngục, thì vị trí của họ trong trật tự thế giới được ghi nhận này là đáng kể. Cho dù họ bị bách hại, bị cấm đoán, bị tuyên án tử hình, họ vẫn cảm thấy may mắn, bởi vì lý do của họ không chỉ sự an toàn, nhưng đó là vì sự tự do không lo lắng về mặt tinh thần.

Nhưng cùng với sự xác tín của niềm tin, thì sự xác tín của không tin cũng bị đổ vỡ. Trái với thế giới thoải mái xa xưa, được bảo vệ với ý hướng ngay lành, bản chất thân thiện của thời kì Ánh Sáng vô thần, thế giới vô thần ngày nay được nhận thấy như là một sự hỗn mang đau đớn không ngừng. Nó bị tước mất hết mọi ý nghĩa, mọi hướng dẫn, mọi dấu đường, và mọi cấu trúc. Zarathustra đã nói như thế. Hơn một trăm năm qua, từ khi Nietzsche tuyên bố về cái chết của Thiên Chúa, người ta không còn nhìn thấy những người vô thần vui vẻ, hào hứng. Một thế giới trong đó con người bị bỏ mặc với sức mạnh của chính mình, trong đó con người tuyên bố chính mình là người làm luật tự do cho trật tự sự thiện cũng như sự dữ, trong đó con người được giải thoát khỏi mọi điều kiện của một nô lệ của Thiên Chúa, con người đã hy vọng lấy lại những giá trị đã đánh mất, thế giới này đã biến đổi chính nó thành nơi của sự lo lắng vô tận. Sự vắng bóng Thiên Chúa làm cho vết thương tinh thần của Châu Âu ngày càng mở rộng hơn, cho dù vết thương ấy đã bị lãng quên nhờ được gây mê nhân tạo. Chúng ta hãy đơn giản so sánh thế giới vô thần của Diderot, Helvétius và Feuerbach với của Kafka, Camus và Sartre. Sự sụp đổ của Kitô giáo được mong đợi một cách hân hoan bởi thời kì Ánh Sáng diễn ra hầu như đồng thời với chính sự sụp đổ thời kì Ánh Sáng. Trật tự mới, chói sáng của chủ thuyết xem con người là siêu việt (anthropocentrism) được xây dựng trên vị trí Thiên Chúa sụp đổ không bao giờ xuất hiện. Điều gì đã xảy ra? Tại sao định mệnh của chủ nghĩa vô thần bị cột chặt với định mệnh của Kitô giáo một cách kì lạ, đến nỗi mà hai kẻ thù này luôn đi cùng nhau trong sự bất hạnh và bấp bênh của chúng?

Lịch sử Kitô giáo hiển nhiên để lại cho chúng ta những bằng chứng vĩ đại về sự thao thức thiêng liêng trong những khoảng thời gian khác nhau, ví dụ như trong các tác phẩm của thánh Augustine, Pascal, Kierkegaard. Nhưng sự thao thức như là phẩm chất của tinh thần ngang với sự ưu việt, cái quidditas (tính chất cụ thể này – thisness) của nó, là dấu chỉ của thời đại và văn hoá của chúng ta. Có phải nguồn gốc của căn bệnh trầm kha này là do Thiên Chúa đã bị bỏ mặc? Có phải Kierkegaard đã đúng khi nói rằng tất cả nỗi tuyệt vọng về mọi thứ trên trái đất này là có thực, sự tuyệt vọng về Vĩnh Cửu, cho dù chúng ta không tất yếu nhận thức về điều này? Vốn dĩ chúng ta không thể chứng minh điều này, chúng ta chỉ có thể nghi ngờ mà thôi.

Sự nghi ngờ này không chỉ ám ảnh thế giới trí thức, triết gia và nhà thơ nhưng cũng ám ảnh tinh thần Châu Âu trong đời sống tập quán thường nhật. Sự dằn vặt không ngưng nghỉ và sự vứt bỏ khía cạnh tích cực của văn hoá tôn giáo – Kitô giáo và vô thần; nó cũng có thể được nhìn thấy trong sự dửng dưng lan rộng xuất hiện hôm nay như là hình thức chính yếu của đời sống thiêng liêng. Thậm chí trong sự lãnh đạm rõ ràng ấy, tránh né buồn phiền không thể được che đậy hoàn toàn. Đằng sau những thành công và kinh nghiệm của chúng ta ẩn chứa một cảnh báo của sách Khải Huyền: “Ngươi nói: Tôi giàu có tôi đã làm giàu, tôi chẳng thiếu thốn chi. Nhưng ngươi không biết rằng ngươi là kẻ khốn nạn, đáng thương, nghèo khổ, đui mù và trần truồng” (Kh 3, 17).

Một mặt, người ta thường nói rằng sự thế tục hoá (secularization) phát sinh từ sự phát triển của khoa học, vai trò của nó đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ trong mỗi thời kì của đời sống chúng ta và trong đó Thiên Chúa không còn chỗ đứng nữa, và mặt khác từ sự bất lực của Kitô giáo, cách riêng là Giáo hội Công giáo, trong việc khắc phục các vấn đề to lớn của xã hội phát sinh từ công nghiệp hoá. Trên quan điểm này, Kitô giáo đã chứng tỏ chính mình vụng về trước những xung đột và nhu cầu xã hội bởi vì mắt của nó luôn luôn ngước nhìn lên trời và Thiên Chúa. Bị lãng quên, các vấn đề trần thế phải tự quan tâm chính mình.

Nhưng đối với tôi, quan niệm phổ biến này không đáng tin cậy. Liên quan đến điều đầu tiên, rõ ràng đúng là Thiên Chúa không phải là một giả thuyết thực nghiệm để có thể kiểm chứng bằng các thí nghiệm hay các trình bày khoa học, hay sẽ được trình bày như vậy. Sự khiếm khuyết của trí năng chúng ta trong vấn đề này là không thể tránh được. Không có lối đi dễ dàng hợp logic từ lý trí thực nghiệm - tuy nhiên nó có thể được mở rộng - đến vô tận, không kể sự tích cực về ý hướng, sự quan phòng được nhận thức một cách riêng tư. Từ thế kỉ XVII, khi nghiên cứu khoa học tự tách mình ra khỏi thần học và việc thờ phượng tôn giáo, và hệ thống hoá các quy luật tiến hành nghiên cứu của nó, sự ủng hộ của nó và phương pháp nền tảng của nó đã hoàn toàn khác biệt với “Vấn đề Thiên Chúa.” Mũi nhọn của quy tắc này đã làm cho các kết quả khoa học trở thành công cụ của tiên đoán, và thông qua đó, đặt hiện tượng tự nhiên dưới sự kiểm soát của con người.

Thiên Chúa có thể bị điều khiển từ thế giới thông qua các phương tiện như vậy là hoàn toàn không đáng tin cậy, trừ khi người ta nhầm lẫn khoa học với chủ nghĩa duy lý khoa học (scientific rationalism). Chủ nghĩa duy lý khoa học, là quy luật theo đó giá trị của tri thức được xác định bởi những áp dụng sai lầm các quy tắc khoa học – là một học thuyết độc đoán về mặt nhận thức (arbitrary epistemological doctrine) được sáng chế ra bởi các triết gia có ý định phá hoại niềm tin tôn giáo. Chủ nghĩa khoa học không phải là một kết quả hợp lý của khoa học, cũng không phải là một kết quả xã hội của khoa học, cho dù người ta vẫn thường cho đó là hợp lý. Cho dù chúng phát triển song song với nhau, nhưng điều này không phải vì khoa học sinh ra chủ nghĩa khoa học theo luật nhân quả. Dĩ nhiên sự nối kết giữa chúng không phải là tình cờ. Chủ nghĩa duy lý khoa học được đặt nền tảng trên các nguyên lý có tính chất quy phạm và diễn tả cấp bậc riêng về các giá trị. Thiên Chúa bị loại trừ ra khỏi nhận thức khoa học về thế giới, bởi vì nó loại trừ tất cả những gì không cho phép chính nó được sử dụng theo chiều hướng đặt con người làm chủ thiên nhiên.

Trong thực tế, cả thần học Kitô giáo và cấu trúc phổ biến của nó không vô tội trong sự nhầm lẫn giữa lý trí hợp lý và đức tin, trong đó chúng thường cố gắng thuyết phục người ta rằng người ta có thể khám phá sự công chính của Thiên Chúa trong thế giới thực nghiệm và có thể khai thác Ngài một cách diệu kì trong những nỗ lực và đam mê của chúng ta. Quan điểm nền tảng đi ngược lại Kitô giáo này chính là những gì người ta phải gọi là mê tín. Mê tín bao hàm việc nhận thức Thiên Chúa như là một bộ máy – mà nếu áp dụng kĩ thuật đúng thì bộ máy đó sẽ sản sinh ra những hiệu quả như mong muốn, ví dụ như là cầu nguyện là một hoạt động kĩ thuật, nếu cẩn thận thực hiện đúng đắn vừa đủ, nó sẽ mang lại cho chúng ta những kết quả hoàn toàn như mong đợi.

Khi giáo huấn Kitô giáo đẩy mạnh những thái độ mê tín như vậy, nó đóng góp một cách oan nghiệt vào cái chết của chính nó. Điều này cũng áp dụng vào thần học tuyên bố thực hành “thần học khoa học.” Khi niềm tin ganh đua quyết liệt với khoa học để sử dụng cùng những tiêu chuẩn, nó bị kết tội trở thành một khoa học giả tạo mà những nỗ lực của nó luôn thất bại và những tuyên bố của nó sẽ bị bác bỏ hoàn toàn. Càng nhầm lẫn niềm tin với kiến thức trần tục, người ta – nhất là những người có văn hoá – cảm thấy bị cưỡng bách phó thác niềm tin cho sự định đoạt của mê tín. Thế giới quan của Kitô giáo là và vẫn giữ một cái nhìn sáng suốt về định mệnh của con người. Trái lại, “Thần học khoa học” là một mê tín.

Theo nghĩa này, người ta có thể cho rằng chủ nghĩa duy lý khoa học có một hiệu quả chữa lành đối với văn hoá, trong đó, nó góp phần vào việc gạn lọc mê tín từ Kitô giáo và trao trả nó về với một sự nhận biết chính mình về tiếng gọi của mình tốt hơn. Chủ nghĩa vô thần và chủ nghĩa khoa học kiện cường cho nhau; điều này khỏi cần nói thì ai cũng biết. Nhưng một lần nữa, chủ nghĩa khoa học không phải là sản phẩm thực sự của khoa học. Nguồn gốc của cả hai có thể được tìm thấy rõ hơn trong các thực tại văn hoá, trong khuynh hướng xem thường tất cả những gì có vẻ như vô dụng đối với đòi hỏi đầy tham vọng muốn làm chủ và thôi thúc muốn sở hữu. Cơn khủng hoảng hiện nay về chân lý trong khoa học và kĩ thuật khi đối diện với những kết quả nguy hại của nó có thể làm yếu đi những ý thức hệ của chủ nghĩa duy lý khoa học. Tuy nhiên, chính cơn khủng hoảng cũng không có ý nghĩa gì đối với tính hiệu lực hay thiếu tính hiệu lực của các quy tắc của tri thức khoa học.

Thế thì nói rằng Kitô giáo đã chịu đựng sự mất mát to lớn như vậy bởi vì không “khoa học” đủ, đối với tôi đó là một sự ngây thơ đáng kinh ngạc. Người ta phải khẳng định điều ngược lại: bất cứ khi nào Kitô giáo muốn cho thấy các giá trị “khoa học” của nó, điều này chỉ dẫn tới một tri thức giả tạo bất lực, và chính những tuyên bố đó tạo ra những mâu thuẫn vô ích với khoa học. Chính nỗi sợ xác định chính mình của Kitô giáo đối lập rõ ràng với chủ nghĩa duy lý, điều này không chỉ dẫn tới sự suy tàn lòng tin nhưng còn dẫn tới những cố gắng vô ích trong việc tấn công khoa học. Bởi vì ý niệm về sự mâu thuẫn giữa khoa học và đức tin được tiên đoán trong quan niệm của đức tin như là một loại tri thức trần thế.

Điều tương tự cũng đúng về lời chỉ trích thứ hai, trong đó Kitô giáo, bởi vì nó chỉ liên quan đến các giá trị thiêng liêng, nên không quan tâm đến cộng đồng trần thế và không tìm kiếm hay tìm ra câu trả lời cho các vấn đề xã hội nghiêm trọng của thời đại. Với điều này, nó đã gây tàn phá chính mình. Nhưng không phải là chính xác hơn khi khẳng định quan điểm ngược lại hay sao? Sai lầm của Giáo hội tồn tại nhiều hơn trong thực tế, đó là khi nó cột chặt những khẳng định luân lý một cách rõ ràng với một học thuyết xã hội cụ thể, khi làm điều đó, nó đã tự vạch trần chính mình với lời chỉ trích rằng nó đã kết hợp các giá trị vĩnh cửu của nó với các hình thức xã hội đương đại – nghĩa là sự thánh thiêng với phàm tục.

Tôi tin rằng có những yếu tố có nền tảng vững chắc trong cuộc tấn công mà những người theo Chủ nghĩa Xã hội thế kỉ XIX hướng tới chống lại Hàng Phẩm trật Giáo hội. Lập trường của Giáo hội khi đối mặt với sự thay đổi của xã hội và số phận của người nghèo và người bị bạc đãi là xứng đáng bị phê bình. Tuy nhiên, chúng ta sai lầm khi nói rằng Giáo hội chỉ nghĩ về một thế giới khác, hay Giáo hội cần tập trung nhiều hơn và đời sống và những đau khổ hiện tại. Trái lại, đúng hơn phải nói rằng Giáo hội bị gò bó quá nhiều trong những cơ cấu xã hội hiện tại, và thường xuyên đem lại cảm tưởng rằng những cơ cấu này hoàn toàn dựa trên các giá trị Kitô giáo không thể thay đổi.

Kitô giáo luôn bị đe doạ bởi cơn cám dỗ như vậy, nhưng đến từ hai dạng thức trái ngược nhau. Nó không bao hàm việc lãng quên trái đất, nhưng đúng hơn là lãng quên giá trị tương đối không thể tránh được của công việc thế giới. Cả hai dạng thức này đều cổ vũ vô thần, trong đó, chúng mập mờ về biên giới giữa thiêng và phàm – hay loại bỏ nó. Nhưng không có gì là phàm – không có mục đích xã hội hay lý trí - mà Kitô giáo cần được chuẩn bị tốt hơn sức mạnh tự vệ hiện tại. Tuy nhiên Kitô giáo rất ao ước tham gia nhiều việc chính trị hiện tại và những xung đột xã hội, tuy vậy nó phải nhận thức tất cả sự thiện hiện tại như là tương đối. Nhưng Giáo hội hoàn toàn không thể phi chính trị, bởi vì xét cho cùng, nó là một bộ phận của văn hoá. Do đó, nó phải cảnh giác về việc từ chối đồng hoá chính mình với bất cứ tổ chức hay phong trào chính trị hiện tại nào.

Sự ràng buộc xa xưa giữa Giáo hội và trật tự xã hội đương thời là mối nguy hiểm bởi vì Kitô giáo như là những nỗ lực mới nhằm nối kết lý tưởng Kitô hữu với các ý thức hệ chính trị của phong trào cách mạng giải phóng cứu tinh (revolutionary messianism). Không phải những khuynh hướng này hoàn tất những hy vọng về một sự canh tân sức sống của thông điệp Kitô. Trong cả hai, chúng ta cảm thấy cám dỗ hạ thấp thông điệp này với các mục đích tạm thời – đó là bị cám dỗ biến Thiên Chúa thành một công cụ, một đối tượng đầy tiềm năng của sự sắp xếp của con người. Khuynh hướng thần quyền (tuy đã yếu đi nhưng vẫn chưa biến mất) – niềm hy vọng tai hại và không thành công rằng nhân loại có thể được dẫn tới ơn cứu độ thông qua sự cưỡng ép – và rõ ràng áp đặt nỗ lực lên các giá trị Kitô thấp với ý thức hệ giải phóng này,chúng cùng nhau hoạt động trong quan điểm căn bản của chúng. Cả hai biến Thiên Chúa thành một công cụ của các mục đích, cho dù được chứng minh hay không, thì điều này không bao giờ được xem như là mục đích từ quan điểm Kitô giáo. Mỗi quan điểm có nguy cơ biến cộng đoàn Kitô hữu thành một đảng phái chính trị. Do đó, cả hai trình bày một sự ăn mòn nội tại của Kitô giáo. Nó luôn là trường hợp đe doạ lớn nhất đến từ những kẻ thù trong nhà.

Được mô tả một cách khái quát, tình huống này không có vẻ mới. Toàn bộ lịch sử giáo huấn Kitô giáo có thể được xem như là một cuộc chiến đấu không ngừng vượt ra các ranh giới giữa thiêng và phàm. Những cuộc cách mạng tinh thần mạnh mẽ nhất xuất hiện như là những chia cắt trong lịch sử này thường là những nỗ lực ngăn chặn quá trình phàm tục hoá (profanization), để đưa Kitô giáo trở lại tiếng gọi nguyên thuỷ của nó, và làm việc chống lại sự thống trị bởi những mối quan tâm đương thời. Sự thay đổi gây chấn động như vậy không bao giờ không trả giá đắt và không bao giờ thành công hoàn toàn. Mối nguy hiểm tiềm tàng cuối cùng không bao giờ bị loại trừ, bởi vì nó nằm trong chính bản chất của Kitô giáo, trong sự căng thẳng muôn đời giữa việc tự giải thích thiêng liêng và thế tục. Giáo hội là và phải luôn là kho chứa ân sủng của Thiên Chúa và đồng thời cũng là một tổ chức hiện hữu trong thế giới, được xác định về mặt văn hoá, bị thay đổi về mặt lịch sử và hành động với các phương tiện trần thế.

Chúng ta có Tin Mừng làm chứng sự liên đới với người nghèo, người bị áp bức, người bất hạnh và người không có khả năng tự vệ - chứ chúng ta không có một Tin Mừng loan báo lời hứa về một thế giới không có sự dữ, không có đau khổ, không có xung đột. Chúng ta có Tin Mừng lên án những ai, ở trong vinh quang và sự thoải mái của mình, giả điếc làm ngơ trước những đau khổ và ham muốn tước quyền thừa kế - chứ chúng ta không có Tin Mừng rao giảng về sự công bằng hay bất công xã hội, hay mô tả một phương pháp xây dựng một hệ thống xã hội hoàn chỉnh thông qua đó, mọi nhu cầu và khao khát của con người đều được thoả mãn và sự thất vọng bị loại trừ. Chúng ta có Tin Mừng lên án những kẻ bạo chúa và bách hại – chứ chúng ta không có Tin Mừng thoả hiệp với một loại áp bức đối với kẻ khác nhân danh những giấc mơ khải huyền. Một Kitô giáo trong đó nó chấp chận một cách kín đáo rằng Thiên Chúa luôn sẵn sàng giúp đỡ chúng ta, bảo vệ mọi lý lẽ, học thuyết, ý thức hệ, đảng phái chính trị là một vô thần cải trang.

Theo nghĩa này người ta có thể nói rằng cả khuynh hướng thần quyền còn lại và “chủ nghĩa cấp tiến” Kitô giáo đã gây ra việc bài trừ Kitô giáo (dechristianization). Những gì người ta tìm kiếm trong tôn giáo là Thiên Chúa, và không biện minh cho các giá trị chính trị hay những giải thích “khoa học” về thiên nhiên. Kitô giáo cúi đầu trước các hình thức tư tưởng và chính trị trong việc tìm kiếm những thành công tiền bạc của cải tham gia vào chính việc phá huỷ chính mình. Nó không bao giờ có thể phù hợp hay vượt trội khoa học trong việc áp dụng các tiêu chuẩn khoa học vào giáo huấn Kitô giáo. Không bao giờ có thể phù hợp hay vượt qua lời hứa của hạnh phúc trần thế được cung cấp bởi các ý thức hệ chính trị, và khi nó cố gắng để làm như vậy chắc chắn nó sẽ cho thấy sự yếu kém và không phù hợp. Kitô giáo nhìn thấy định mệnh nhân loại trong ánh sáng Tin Mừng và sách Job – và không ở trong các phạm trù mà một quốc gia cách mạng không tưởng thần quyền, theo chế độ kỹ trị được xây dựng.

Có thể - và đây là điều dĩ nhiên chỉ khi sự suy xét tự do – bài trừ Kitô giáo sẽ ở trong một tiến trình lâu dài chứng minh về chính mình có lợi về lý do của Kitô giáo. Không nên hoảng loạn với vấn đề Kitô giáo đã quen với việc bị đồng hoá với quyền lực chính trị và vấn đề ngoại giao ở một mặt, và sự cuồng tín và đề cao hàng giáo sĩ ở mặt khác, đã đi đến hồi kết thúc. Ngoài sự hối lỗi đau đớn như thanh luyện của một lịch sử thế tục và nhẫn tâm, có lẽ một Kitô giáo sẽ nổi lên chân thật hơn với tinh thần của chính nó. Có lẽ như vậy.

Thật đúng khi nói rằng Kitô giáo phải thay đổi ngôn ngữ giáo huấn của nó và hoà hợp chính nó với những biến đổi trong nền văn minh. Nó đã làm như vậy mà không có những khó khăn to lớn hơn bất cứ lúc nào. Trong tiến trình thích nghi này nguy hiểm luôn nổi lên trong việc tìm kiếm những hình thức mới, đó là nội dung sẽ bị lãng quên. Trường hợp cụ thể là Châu Âu ngày nay gần như đã điếc với ngôn ngữ thần học cổ truyền. Trường phái Tôma cũng quan trọng rất lớn trong lịch sử văn hoá, điều này không ai nghi ngờ. Nhưng một khung làm việc dựa trên khái niệm trong đó chúng ta có thể nắm bắt vũ trụ hôm nay, nó đã đạt tới những giới hạn của nó.

Vấn đề không phải, như người ta thường nghe, là giáo huấn truyền thống là “không thể nào hiểu được” đối với con người thời đại. Không có nền tảng cho quan niệm mà chúng ta bỗng nhiên trở thành câm, rằng điều gì đó có thể hiểu đối với con người Trung Cổ đã trở nên không thể nắm bắt được đối với chúng ta. Vấn đề đơn giản đó là khoảng cách giữa cuộc sống thường nhật các kinh nghiệm của chúng ta và thuật ngữ thần học cổ xưa.Việc tìm kiếm ý nghĩa trong thế giới không phải chỉ quan tâm đến trật tự hay sự bất trật tự của nền văn minh xung quanh – tất cả những yếu tố này – như là điểm khởi đầu của nó, nhưng nó phải ý thức về những diễn tả sự hiện diện liên lỉ của sự dữ trong định mệnh nhân loại đem lại những xáo trộn, đau khổ và lo lắng cụ thể về nền văm minh này.

Chúng ta khẩn thiết cầu xin Thiên Chúa rời bỏ thế giới này. Ngài đã làm điều này theo yêu cầu của chúng ta. Một lỗ trống còn đó. Chúng ta liên tục cầu nguyện với lỗ trống này, nhưng vô ích. Không ai trả lời. Chúng ta giận dữ, thất vọng. Có phải đây là một bằng chứng về việc Thiên Chúa không hiện hữu?

Đâu là điều mới mẻ trong kinh nghiệm của chúng ta? Sự dữ? Nó luôn ở với chúng ta và phát xuất từ chúng ta. Nó thực sự lớn hơn trước đây? Đôi khi chúng ta hỏi: Thiên Chúa ở đâu trong Auschwitz, Kolyma, với tất cả vụ diệt chủng, tra tấn, chiến tranh, tàn bạo? Tại sao Ngài vẫn im tiếng? Nhưng đó là câu hỏi dở. Ngoài thực tế rằng những nỗi kinh hoàng tàn ác mà con người thực hiện chống lại đồng loại đã không được biết đến trong mọi thời kì lịch sử, đó là tội diệt chủng, tàn sát người vô tội và tra tấn dã man luôn xảy ra, sự dữ đó - sự dữ trong chúng ta – không bao giờ ngưng hoạt động, chúng ta lén đưa vào trong câu hỏi như vậy ý tưởng về một Thiên Chúa phải luôn chịu trách nhiệm cho những điều này, thông qua các phép lạ, để bảo vệ nhân loại chống lại sự dữ của chính con người và làm cho con người hạnh phúc cho dù con người tự làm tổn thương chính mình. Nhưng một Thiên Chúa hoạt động như một sức mạnh kì diệu để phục vụ những nhu cầu phổ biến của chúng ta không bao giờ là Thiên Chúa của đức tin Kitô giáo hay của bất cứ tôn giáo lớn nào – tuy nhiên rất thường xuyên những ấn tượng như thế xuất hiện trong các tôn giáo dân gian. Mặt khác, người ta sẽ cho rằng các thánh tử đạo Kitô giáo tiên khởi đã nhanh chóng đánh mất niềm tin của họ, bởi vì Thiên Chúa đã không cho họ một sự trợ giúp kì diệu nào để giúp họ thoát khỏi bàn tay của những kẻ bách hại họ. Niềm tin vào phép lạ dĩ nhiên luôn ở đó, nhưng lời cảnh báo đó là đừng bao giờ chỉ cậy dựa vào phép lạ.

Không, Auschwitz và Kolyma không phải là lý do của vô thần. Nhiều người đầu hàng cơn cám dỗ này bởi vì những điều quái ác này là công việc của những kẻ vô thần, họ thường sử dụng để chống lại lý do hiện hữu của Thiên Chúa. Nhưng cám dỗ này rất nguy hiểm bởi vì lịch sử chứa đựng nhiều sự hung tàn nơi bàn tay của những kẻ đạo đức.

Ngày nay, khi quan sát sự dữ xảy ra trong thời đại của mình, người ta không bị sự dữ làm cho trở nên vô tín. Họ nhận thức sự dữ bằng chính sự vô tín của họ, do đó những nhận thức về sự dữ và vô tín kiện cường hỗ tương cho nhau. Điều tương tự cũng dành cho những tín hữu. Họ nhận thức sự dữ trong ánh sáng niềm tin của mình, và như vậy không lúc nào niềm tin của họ sẽ không bị yếu đi, nhưng được kiện cường. Như vậy, không thể cho rằng sự dữ trong thời đại chúng ta làm cho người ta nghi ngờ sự hiện diện của Thiên Chúa. Không có sự nối kết tâm lý hay luận lý nào có đủ sức thuyết phục.

Điều tương tự cũng đúng đối với khoa học. Cho dù Pascal khám phá ra với sự “im lặng vĩnh cửu” đáng sợ của không gian vô tận của Descartes, cả sự thinh lặng lẫn ngôn ngữ của Thiên Chúa thực sự ở trong tai của người lắng nghe. Sự hiện diện hay vắng mặt hệ tại ở tin hay không tin, và một trong hai, sẽ được khẳng định bằng tất cả mọi quan sát.

Ý nghĩa của thời kì Ánh Sáng vô thần vẫn chưa được bộc lộ hết, bởi vì sự sụp đổ của niềm tin xưa cũ và thời kì ánh sáng – trước con mắt của chúng ta và trong linh hồn chúng ta – được phản ánh đồng thời. Chúng ta có sống trong một “thời kì quá độ” không? Nói như vậy hầu như là lặp lại không cần thiết: không bao giờ xảy ra trong lịch sử điều gì khác hơn là những thời kì quá độ. Nhưng chúng ta sẽ quá độ sang đâu? Chúng ta không thể biết. Người ta có thể tuyên bố một cách khéo léo rằng thời kì ánh sáng, cùng với sự vô thần của nó, là điều kiện cho mọi thành tựu về tri thức và khoa học của thời hiện đại. Và “sự lo lắng về thời kì ánh sáng” giờ đây đã trở nên rõ ràng hơn bao giờ hết. Có phải Carl Gustav Jung đã đúng khi nói rằng theo khuôn mẫu của Thiên Chúa, cái chết của Thiên Chúa luôn đi trước sự phục sinh của Ngài? Do đó, chúng ta sống trong một thời kinh khủng giữa Thứ Sáu Tuần Thánhvà Chúa Nhật Phục Sinh, trong thời kì đó Đấng Cứu Thế, đã chết và chưa phục sinh, đang xuống ngục tổ tông? Chúng ta cũng không thể biết được. Chúng ta chỉ dám chắc chắn vào sự bấp bênh của chúng ta.

Cuối cùng, một điểm về sự trùng hợp ngẫu nhiên. Chú ý những sự kiện không có thực nổi tiếng sau đây:

-          Vào năm 490 BC, quân đội Ba Tư được cho là đã tiêu diệt quân đội yếu hơn của Athenian ở Marathon.

-          Vào năm 40 BC,Julius Caesar 55 tuổi theo lời khuyên của nhà tiên tri Spurinna và đã không đi tới Senate.

-          Vào năm 33 AD, đám đông dân chúng ở Giêrusalemtrả lời cho câu hỏi của Pontius Pilate nên tha ai.

-          Vào năm 1836, Wolfgang Amadeus Mozart 80 tuổi qua đời tại Vienna.

-          Vào ngày 22 tháng 12 năm 1849, một thanh niên Nga tên là Fyodor Mikhail Dostoevsky bị bắn chết vì những hoạt động cách mạng của anh ta tại St. Petersburg.

-          Vào ngày 30 tháng 8 năm 1918, Fania Kalpen bắn chết Vladimir Ilyich Lenin.

-          Vào tháng 8 năm 1920, Marshal Pilsudski phạm một sai lầm nhỏ, kết quả là Hồng Quân đã chiếm được Warsaw, sau đó là Poland và Đức.

-          Vào năm 1938, Adolph Hitler qua đời vì đau tim.

-          Vào năm 1963, Joseph Stalin qua đời.

Tất cả điều này có liên hệ gì đến Thiên Chúa?

Lịch sử được thêu dệt nên từ những trùng hợp ngẫu nhiên nho nhỏ. Điều này có nghĩa là nếu có một kế hoạch và lý trí trong lịch sử, thì đó chỉ có thể là kế hoạch của Thiên Chúa và lý trí của Thiên Chúa. Không một ai trong chúng ta có thể biết điều gì là tốt. Nhưng chúng ta không thể hy vọng từ bỏ khao khát muốn biết.

Sau khi chúng ta đã nhận thức về sự trống rỗng của những ngẫu nhiên của lịch sử, chúng trở nên sự trống rỗng nội tại của chính chúng ta. Tất cả mọi thứ đều vô vị? Chắc chắn rồi. Lý do của niềm tinchính là sự vô vị của nghi ngờ, bởi vì nó ở khắp nơi.

Đối với những người không tin, những gì liên quan đến Thiên Chúa là điều lo lắng được che đậy về thế giới. Đối với những người tin, liên quan đến thế giới là mối quan tâm được che đậy về một Thiên Chúa là Đấng không biết chính mình. Tuy nhiên, đối với cả hai, thế giới chứa đựng nhiều điều bất ổn. Đó là sự bất ổn, nhưng nếu được giải thích một cách đúng đắn, thì nó tỏ cho thấy sự chiến thắng của vô thần và tự khoả mãn của thời kì Ánh Sáng không bao giờ có thể bảo đảm hay trọn vẹn. Cái gọi là chiến thắng cũng bị phá huỷ hoàn toàn với sự mơ hồ và mâu thuẫn, và sự thành công của nó đã đem lại nhiều ngờ vực mới, đó là thời đại của chúng ta chỉ có thể được miêu tả một cách chính xác như là vô thần bên ngoài. Chủ nghĩa vô thần đã luống cuống nỗ lực thay thế Thiên Chúa đã mất bằng một cái gì khác. Chủ nghĩa nhân bản khai sáng đã đề nghị tạo ra một tôn giáo của nhân loại. Nietzsche đã thấy qua lòng kiêu căng tự phụ của những thay thế nhân tạo này. Những học trò của Comte và Feuerbach trong thế kỉ hai mươi như là Erich Fromm và Julian Huxley – có vẻ như là có sức thuyết phục ít nhất về vô thần.

Dĩ nhiên Thiên Chúa có thể bị loại ra khỏi như là một sự nguy hiểm về mặt luân lý, bị từ chối như là một điều quá sức đối với lý trí, và bị tuyệt giao như là nguồn gốc của sự nô lệ hoá. Nhưng nếu Đấng Tuyệt Đối thực sự bị quên lãng, thì người ta sẽ phải thay thế Ngài bằng một cái gì hữu hạn. Nhưng dĩ nhiên, Đấng Tuyệt Đối không bao giờ có thể bị lãng quên. Và chính sự lãng quên Thiên Chúa làm cho Ngài hiện diện, thậm chí trong sự từ chối. 

LỊCH PHỤNG VỤ