NÊU TÊN
ĐỨC GIÁM MỤC
TRONG KINH NGUYỆN THÁNH THỂ NHƯ THẾ NÀO ?
MỤC ĐÍCH – Ý NGHĨA [1]
Kinh nguyện Thánh Thể được xếp
vào một trong số những lời nguyện cao trọng và thánh thiện nhất của Hội Thánh.
Vì thế, Hội Thánh hết sức cẩn trọng trong từng từ ngữ và cấu trúc của kinh
nguyện này. Trừ ra những trường hợp hết sức hoạ hiếm như quyết định thêm tên
Thánh Giuse vào, bản văn và công thức được Giáo Hội soạn ra trong các Kinh
nguyện Thánh Thể không nên có bất kỳ một sự thêm thắt tự tiện nào khác và không được bỏ sót nêu tên Đức Giáo hoàng
và Giám mục giáo phận.[2]
Việc xướng đích danh tên của Đức
Giáo hoàng (lãnh đạo Hội Thánh phổ quát), Đức Giám mục giáo phận (lãnh đạo Hội
Thánh địa phương)
và có thể là tên của
cả Đức Giám mục phó hay phụ tá trong mọi Kinh nguyện Thánh Thể nhằm 3 mục đích.
Thứ nhất, tôn trọng một
truyền thống rất xa xưa trong Hội Thánh; Thứ hai, để các tín hữu đồng tâm nhất trí
với các ngài và cầu nguyện cho các ngài;[3]
Thứ ba, không những thế, những lời này còn ít nhiều diễn tả dạng
thức trung thành của cộng đoàn
tín hữu đối với các vị lãnh đạo của họ. Lời cầu được tiếp nối bằng việc cầu nguyện cách chung cho “tất cả các Gíam
mục”[4]
và cho “toàn thể hàng
giáo sĩ khắp nơi”[5]
(không nhắc tên đích danh) nhằm biểu hiện mối dây hiệp nhất của cộng đoàn tín hữu với các ngài là
những vị mục tử trong Hội Thánh.[6]
Khi đọc Kinh nguyện Thánh Thể, các tư tế không nhân danh bản thân mình, nhưng là đại
diện Chúa Kitô và Giáo Hội. Trọn vẹn Kinh nguyện Thánh Thể mang âm hưởng hiệp
thông, do đó, công thức này diễn tả một
thực tại thần học sâu xa trong đó tư tế và cộng đồng bày tỏ họ thuộc về Hội
Thánh hoàn vũ qua sự hiệp thông theo phẩm trật với Đức Giáo hoàng và Đức Giám
mục giáo phận là những vị đã được tín thác cho nhiệm vụ dưỡng nuôi và củng cố sự hiệp nhất thâm sâu của Nhiệm
thể Chúa Kitô.[7] Đức Thánh Cha
đại diện cho sự hiệp nhất này ở cấp độ hoàn vũ vì ngài là nguyên lý và nền tảng hữu hình, vĩnh
cửu, là dấu chỉ và là người phục vụ sự hiệp thông giữa các Giám mục cũng như
giữa các tín hữu cả trên bình diện cơ cấu lẫn
bình diện pháp lý và cai quản; còn Đức Giám mục giáo phận, ngài là nguyên lý
và nền tảng hữu hình, là dấu hiệu và khí cụ cho sự hiệp nhất
này ở cấp độ địa phương. Kinh nguyện Thánh Thể nhắc tới sự hiệp thông với Đức
Giáo hoàng, với Đức Giám mục giáo phận, với Giám mục đoàn, với toàn thể hàng
giáo sĩ là cần thiết để Thánh lễ cử hành mang tính Công giáo đích thực. Việc
nêu đích danh tên của Đức Giáo hoàng và Đức Giám mục giáo phận thực sự dựa trên
khoa Giáo Hội học về hiệp thông, tức là sau Đức Giáo hoàng, sự hiệp thông Giáo
Hội được thiết lập qua Đức Giám mục giáo phận xét như ngài là Đại diện Đức Kitô
(vicarius Christi), là chủ chăn của một phần Dân Chúa ở đó.[8] Hơn nữa, sự hiệp
thông với Giám mục giáo phận là điều kiện để mọi cử hành trong địa phận được
hợp pháp.[9]
CÁCH THỨC NÊU TÊN ĐỨC GIÁM MỤC [10]
1. Phải nêu tên
Cách chung, tư
tế trước hết nêu danh hiệu của Đức Giáo hoàng đương kim mà theo tập quán chỉ cần nêu tên ngài chứ không
cần nêu con số. Tiếp đến, tư tế nêu danh tính của Đức Giám mục đang cai quản giáo phận (Bản quyền địa phương) hoặc Đức
Giám mục gíam quản giáo phận hoặc vị cùng đẳng cấp với Giám mục giáo phận theo
luật. Nếu có thể, tư tế nêu thêm tên của Đức Giám mục phó hay phụ tá. Tại Rôma,
chỉ nêu tên Đức Giáo hoàng mà thôi vì ngài là Giám mục của giáo phận Rôma.
2. Không nêu tên
Cách chung, không
nêu tên Đức Giám mục khi vị tư tế dâng lễ trên biển khơi hay những nơi không có
Đức Giám mục cư trú. Cũng nên
bỏ qua những tước hiệu danh dự như Hồng y. Trong Thánh lễ đồng tế có nhiều vị Giám mục tham gia cử hành, nguyên tắc
là không nêu tên các Đức Giám mục ngoài giáo phận, dù một trong số các ngài làm
chủ tế. Cũng không nêu tên Đức Giám mục về hưu (trừ khi ngài vẫn tiếp tục được
chọn điều hành tạm thời giáo phận trong tư cách là giám quản giáo phận).[11] Tốt nhất,
nên cầu nguyện cho các ngài trong phần Lời nguyện Tín hữu.
Cụ thể hơn, Quy chế Tổng quát Sách Lễ Rôma số 149 dạy rằng:
- Vị tư tế tiếp tục Kinh nguyện Thánh Thể như chữ đỏ đã ghi trong mỗi kinh.
·
Nếu chủ tế là Đức Giám mục cử hành trong giáo phận
của mình và chính ngài đọc thì sau những lời “cùng với Ðức Giáo hoàng T”
(Papa nostro N.), ngài thêm “và con là tôi tớ bất xứng của
Chúa cùng toàn thể hàng giáo sĩ" (et me
indigno famulo tuo… - Kinh nguyện Thánh Thể II). Cũng áp dụng tương tự
như vậy cho các Kinh nguyện Thánh Thể khác, chẳng hạn, đối với Kinh nguyện
Thánh Thể III, Giám mục chủ tế đọc: "cùng
với tôi tới Chúa là Đức Giáo hoàng T .
và con là tôi tớ bất xứng của Chúa,
cùng toàn thể hàng Giám mục, giáo sĩ khắp nơi, và tất cả dân riêng Chúa".
·
Nếu Đức Giám mục cử hành ngoài giáo phận của mình,
sau những lời: “cùng với Ðức Giáo hoàng T.”( Papa nostro N.), ngài thêm: “và con
là tôi tớ bất xứng của Chúa và người anh em con là T., Giám mục giáo phận T.
này” (et me indigno famulo tuo, et fratre meo N.,
Episcopo huius Ecclesiae N.).
·
Đức Giám mục giáo phận, hoặc vị cùng đẳng cấp với
Giám mục giáo phận theo luật (có thể là một vị linh mục), phải được xướng tên
với công thức: “cùng với tôi tớ Chúa là Ðức Giáo hoàng T. và Ðức Giám mục T.
(hoặc: đại diện, giám chức, phủ doãn, đan viện phụ)[12] chúng con” [una cum famulo tuo Papa nostro N. et Episcopo (Vicario, Prelato, Praefecto,
Abbate)].[13]
·
Trong Kinh nguyện Thánh Thể, có thể xướng tên các
Đức Giám mục phó và phụ tá,[14] nhưng không cần xướng tên các Đức Giám mục khác có
thể hiện diện trong buổi cử hành.[15] [Những lời kính trọng dành cho các ngài ở
chỗ này là không phù hợp bởi vì cử hành
Thánh lễ tại một Giáo Hội địa phương được cắm rễ sâu xa nơi chức tư tế của Giám
mục giáo phận xét vì là ngài là tiêu điểm và nguyên lý của sự hiệp nhất; hơn
nữa, những lời chuyển cầu trong Kinh nguyện Thánh Thể cũng bao gồm việc cầu
nguyện cho tất cả các Giám mục].[16]
·
Khi phải xướng tên nhiều vị, nên đọc theo một công
thức chung: “Ðức Giám mục T. giáo phận chúng con và các Đức Giám mục cộng
tác với ngài” (et Episcopo nostro N. eiusque Episcopis
adiutoribus).[17]
·
Trong mỗi Kinh nguyện Thánh Thể, phải thích ứng
những công thức trên sao cho hợp với cấu trúc văn phạm.
LƯU Ý MỘT SỐ TRƯỜNG HỢP
1. Trống ngôi Giáo hoàng
Nếu Đức Giáo
hoàng đương kim qua đời (sede vacante), cho dầu Đức Giáo hoàng về hưu vẫn còn sống,
thì trong thời gian chờ đợi có Tân Giáo hoàng, vị tư tế không nêu tên Đức Giáo
hoàng đã quá cố hay tên bất cứ Đức Giáo hoàng nào khác.
2. Tòa Giám mục trống ngôi
Khi tòa Giám mục
trống ngôi (sede vacante) do Đức Giám mục đương chức qua đời, từ nhiệm hay
chuyển đến một toà khác, giáo phận sẽ được điều hành bởi một linh mục hay Giám
mục với vai trò làm giám quản giáo phận.[18]
Nếu vị này là
một linh mục giám quản do hội đồng tư vấn giáo phận bầu lên hoặc do Đức Tổng Giám mục giáo tỉnh chỉ
định [trong trường hợp qua 8 ngày mà vẫn chưa bầu xong] để điều hành tạm thời cho
đến khi có một Đức Giám mục khác được bổ nhiệm cai quản giáo phận, thì không cần
nêu tên ngài trong Kinh nguyện Thánh Thể vì chỉ nguyên danh hiệu giám quản
không phải là danh hiệu phụng vụ và không thuộc về phạm trù nguyên lý hiệp thông
như thánh chức Giám mục [cùng với Bí tích Thánh Thể] như sẽ nói tiếp dưới đây.[19]
Nếu giám quản là một vị Giám mục, tên của ngài phải được nêu trong Kinh
nguyện Thánh Thể như thường cho đến khi một Đức Giám mục khác được bổ nhiệm về
cai quản địa phận qua nghi lễ tựu chức theo đòi hỏi của Giáo luật số 382.[20] Điều này có nghĩa là dù Toà Thánh đã công bố danh
tánh của vị tân Giám mục và đã có văn thư của Toà Thánh bổ nhiệm ngài làm Giám
mục chính toà coi sóc giáo phận, nhưng tư tế trong giáo phận vẫn chỉ nêu tên
Đức Giám mục giám quản chứ không nêu tên vị tân Giám mục này cho tới ngày ngài
được phong chức Giám mục (nếu chưa chịu chức) và chính thức tựu chức. Tuy
nhiên, không được đọc các danh hiệu khác biệt nếu có của vị Giám mục giám quản
như Tổng Giám mục, Hồng y Tổng Giám mục hay Giám quản Tông toà. Lý do được nêu
đích danh trong Kinh nguyện Thánh Thể không phải vì ngài làm giám quản nhưng vì
ngài là Giám mục giám quản. Ở một mức độ nào đó, ngài cũng tương tự như vị Giám
mục giáo phận, cho nên công thức trong Kinh nguyện Thánh Thể không cần thay đổi
(vẫn đọc “Đức Giám mục T.
chúng con…”). Với thánh chức Giám mục mà ngài đã lãnh nhận
trong ngày phong chức, ngài lãnh nhận sự sung
mãn của Bí tích Truyền chức (primatus sacerdotii), trở nên người kế vị các Tông
đồ để chăn dắt Giáo Hội Chúa cũng
như thuộc về phạm trù nguyên lý hiệp thông của Giáo Hội địa phương [bên cạnh Bí
tích Thánh Thể] trong vai trò Giám mục giám quản. Tác giả Susan K. Wood nhắc lại rằng, theo Công
đồng Vatican II, hai điều cần thiết cho một Giáo Hội đặc thù là Thánh Thể và
Giám mục. Một Giáo Hội đặc thù cốt yếu là một cộng đoàn bàn thờ (thờ phượng,
altar) quanh vị Giám mục của mình.[21]
3. Có nêu tên Đức Giám mục nghỉ hưu không?
Theo tác giả Edward McNamara, chỉ có Giám mục giáo phận đương nhiệm mới được nêu tên đích
danh trong Kinh nguyện Thánh thể và việc nêu danh tánh Giám mục trong Kinh nguyện
Thánh Thể không
phải là một vấn đề lịch sự hoặc kính trọng, nhưng là một vấn đề hiệp thông Giáo
Hội (una cum Papa et Episcopo).[22] Dựa vào văn thư của Bộ Phụng tự “De nomine Episcopi proferendo in Prece eucharistica”
(09-10-1972), cha Đỗ Xuân Quế, OP cũng nhắc lại rằng: “Cầu nguyện cho Đức Cha
trong Kinh nguyện Thánh Thế vừa là bổn phận vừa là điều phải lẽ, “không phải
chỉ để tỏ lòng tôn kính mà chính là để biểu lộ mối hiệp thông và tình bác ái
đối với ngài, hầu xin ơn trợ giúp cho bản thân và sứ vụ của ngài” [tiếng
la-tinh là “Non tantum vel non praecipue honoris gratia, sed ob causam
communionis et caritatis, sive ad divina auxilia pro ejus persona et ministerio
impetranda”] (Acta Apostolicae Sedis 64 [1972], 692-694).[23]
Ở cấp độ hoàn vũ, mỗi Giám mục
giáo phận đại diện cho Giáo Hội tại địa phương của mình, và tất cả các Giám mục
cùng với Giáo hoàng đại diện cho toàn thể Giáo Hội trong mối dây bình an, yêu
thương và hiệp nhất.[24] Giám mục của hai giáo phận có
thể thiết lập sự hiệp thông với nhau, nhưng để hoàn toàn thuộc về Giáo Hội Công
giáo, họ hay Giám mục đoàn, cần phải hiệp thông hữu hiệu với Đức Thánh Cha, ngài
làm Đầu
cho Thân
Thể hay Đoàn Thể các Giám mục, và đó chính là Giám mục Roma.[25] Ở cấp giáo phận, linh mục đại diện cho
các Giám mục để thi hành thừa tác vụ rao giảng Phúc
Âm, chăn dắt tín hữu và cử hành việc thờ phượng Thiên Chúa.[26] Theo Hiến chế Tín
lý về Giáo Hội (Lumen
Gentium), các linh mục là cộng sự viên khôn ngoan, là
phụ tá và là dụng cụ của hàng Giám mục; Họ
phụ thuộc vào các Giám mục trong việc thực thi quyền hành của họ" (số 28).
Do đó, sự hiệp thông của họ với Bản quyền địa phương không kém phần quan trọng.
Phần trình bày trên giải thích
lý do tại sao trong lời chuyển cầu của Kinh Nguyện Thánh Thể, chúng ta chỉ nêu
đích danh danh hiệu của Đức Giáo hoàng
và Đức Giám mục giáo phận đương nhiệm chứ không nêu danh tánh của Đức
Giám mục về hưu [hay Đức Giáo hoàng về hưu]. Các ngài là Giám mục và đứng trong
Hàng ngũ Giám mục, nhưng các ngài không còn thi hành sứ vụ cai quản giáo phận
[hay Giáo Hội hoàn vũ] như khi đương chức. Lúc này, các ngài không còn là biểu
tượng, là sự diễn tả của sự hiệp thông, hay chịu trách nhiệm cho mối dây hiệp
thông của Giáo Hội địa phương hoặc của Giáo Hội hoàn vũ nữa. Vì vậy, như đã
nói, các ngài được xếp nằm trong lời cầu nguyện cách chung (không nhắc tên đích danh) dành cho tất cả các
Gíam mục và cho toàn thể hàng giáo sĩ nhằm biểu hiện mối dây hiệp nhất của cộng đoàn tín
hữu với các ngài là những vị mục tử trong Hội Thánh.[27]
Tuy không đưa tên Đức Giám mục
nghỉ hưu vào Kinh
nguyện Thánh Thể, nhưng các cộng đoàn giáo xứ và dòng tu trong giáo phận nên
cầu nguyện luôn cho ngài trong phần Lời nguyện Tín hữu của Thánh lễ hằng ngày
hay trong Lời cầu của Giờ kinh Phụng vụ mỗi ngày. Nhiều người lầm tưởng rằng
chỉ dâng Lời nguyện Tín hữu trong Thánh lễ Chúa nhật hay những dịp trọng thể.
Thực ra, Hội Thánh khuyến khích dâng Lời nguyện Tín hữu mỗi ngày trong mọi
Thánh lễ có giáo dân tham dự.[28]
Về vấn đề điều chỉnh thêm thắt những chi tiết khác vào trong các văn bản hoặc chữ đỏ của Thánh lễ nói chung và trong Kinh nguyện Thánh Thể nói riêng, các vị tư tế nên nhớ rằng, Thánh lễ thuộc về toàn thể Hội Thánh và là một phần quan trọng của "Kho tàng đức tin" (depositum fidei)[29] nên chỉ có Huấn quyền của Giáo Hội (Magisterium) mới có quyền thay đổi, ngay cả Giám mục giáo phận cũng không có thẩm quyền trừ ra phải tuân theo những thủ tục nghiêm ngặt, như phải có những lý do mục vụ hết sức cần thiết, được Hội đồng Giám mục thông qua [với 2/3 số Giám mục đồng ý] và phải trình lên Toà Thánh để đươc phê chuẩn trước khi đem áp dụng. Vì thế, các linh mục càng phải tránh xa thói quen tự ý thêm thắt điều này điều kia vào trong Kinh nguyện Thánh Thể. [30]
Lm. Giuse Phạm Đình Ái, SSS
[1]
Xc. Edward McNamara, "Mentioning Bishops in the
Eucharistic Prayers" trong A Zenit Daily Dispatch (17 Feb. 2009) - Notitiae 45 (2009) 308-320.
[2] Xc. Hiến chế Phụng vụ Thánh, số 22; Quy chế Tổng quát Sách Lễ Rôma, số 24; Huấn thị Bí tích Cứu độ (Redemptionis
sacramentum), số 51, 56, 59.
[3]
Xc. Huấn thị Bí tích Cứu độ, số 56; Edward
McNamara, "Mentioning Bishops in the
Eucharistic Prayers"; Notitiae 45 (2009) 308-320.
[5] Kinh nguyện Thánh Thể II; III; IV; Cầu cho những nhu cầu khác nhau II, III, IV;
Thánh lễ với trẻ em II, III.
[7]
Xc. Barry Hudock, The Eucharistic Prayer
– A User’s Guide (Collegeville,
Minnesota: A Pueblo / The Liturgical Press, 2010), 82.
[8] Xc. Hiến chế Tín lý về Giáo Hội (Lumen Gentium = LG), số 22-23; Sắc lệnh về Nhiệm vụ Mục vụ của Giám mục (Christus Dominus), số 6; Sách Giáo lý
Hội Thánh Công giáo, số 1369.
[10]
Xc. Xc. Edward McNamara, "Inserts into Eucharistic Prayers" trong A Zenit Daily Dispatch
(Rome – 19 May 2015).
[11]
Xc. Giáo Luật số 418#2: Trong trường
hợp này, tư tế vẫn nêu tên ngài như công thức thông thường “cùng với Đức Giáo hoàng T., Đức Giám mục T.
chúng con…” (Kinh nguyện Thánh Thể II).
[13]
Xc. Giáo Luật số 370-371; The Decree Cum de
nomine, on the mention of the bishop’s name in the Eucharistic Prayer (October
9, 1972), Acta Apostolicae Sedis 64 [1972], 692-694 trong Documents on the Liturgy, 1963-1979, no. 1970).
[16] Xc. Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma, số 92; Edward Foley (ed), A Commentary on the General Instruction of the Roman Missal (Collegeville, Minnesota: A Pueblo / The Liturgical Press, 2007), 250-251.
[17] Nghĩa là không nêu từng tên riêng biệt vì có những giáo phận mà số Đức Giám mục phụ tá
là 3,4,5 hay thậm chí lên tới 9 vị.
[19] Xc. Giáo Luật số 419; 421#1; LG, số 20; 21; Bộ Giáo lý Đức tin, “Giáo hội như là hiệp thông” (ngày
28 tháng 5 năm 1992), số 14.
[21]
Xc. Hiến chế Tín lý về Giáo Hội Lumen
Gentium (=LG), số 20-23; Bộ
Giáo lý Đức tin, “Giáo hội
như là hiệp thông”, số 14; Susan
K. Wood, “The Church as Communion” trong Peter C. Phan (ed), The Gift of the
Chuch (Collegeville, Minnesota: A Pueblo / The Liturgical Press, 2000), 159-176.
[22]
Xc. Edward McNamara, "Mentioning Bishops in the Eucharistic
Prayers"; Notitiae 45 (2009) 308-320.
[23] Đỗ Xuân Quế, “Đọc tên Đức Cha trong Kinh nguyện Thánh Thể” trong http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/Phungvu/69KinhNguyenTT.htm
[27]
Xc. Quy chế Tổng quát Sách Lễ Rôma, số 79g;
92; Edward Foley (ed), A Commentary on the General Instruction of the Roman Missal, 250-251
[28] Xc. Quy chế Tổng quát Sách Lễ Rôma, số 69; Joseph DeGrocco, A Pastoral Commentaty on the General
Instruction of the Roman Missal (Chicago: Liturgy
Training Publication, 2011), 48.
[30]
Xc. Hiến chế Phụng vụ Thánh, số 22; Giáo luật 838, 846, 928; Quy chế Tổng quát Sách Lễ Rôma, số 24; Paul VI, address of August 22, 1973: L’Osservatore Romano (August 23, 1973); Huấn thị
Bí tích Cứu độ, số 51 và 59; Tông
Huấn Sacramentum Caritatis, số 37-40; Inaestimabile Donum,
số 5; Edward McNamara, "Inserts into Eucharistic Prayers".