Năm Tân
Phúc-Âm-hoá đời sống Giáo xứ và Cộng đoàn
– Gợi ý mục vụ
–
Đề tài 3. Giáo xứ: Cộng
đoàn thừa sai với chứng từ của đời sống thánh hiến
“Hài nhi càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan
và hằng được ân nghĩa cùng Thiên
Chúa” (Lc 2,40)
Giáo
xứ là “giếng nước đầu làng” nơi mọi người đến để được giải khát, nơi quy tụ và
truyền thông, tạo nên cuộc sống của cộng đồng sống yêu thương hiệp thông, từ đó
tạo nên chứng từ để truyền giáo. Cũng như bí tích của Tình Yêu Thần linh biểu
lộ qua hai bậc sống hôn nhân và độc thân trinh khiết, đời sống hiệp thông của
cộng đoàn giáo xứ cũng được hợp thành từ chứng từ sống động của các gia đình,
hội thánh thu nhỏ, và của các cộng đoàn “tu trì” tức sống đời thánh hiến với
các lời khuyên Phúc âm.
1. Đời sống thánh hiến
– Bậc tu trì hay đời sống
thánh hiến “được thiết lập do việc tuyên giữ các lời khuyên Phúc âm, tuy không
liên quan đến cơ cấu phẩm trật của Hội thánh, vẫn thuộc về đời sống và sự thánh
thiện của Hội thánh một cách vững bền”.[1] Thực ra, mọi Kitô hữu đã được Rửa tội đều phải
sống các lời khuyên của Phúc âm vốn có nhiều, nhưng đối với các tu sĩ hay những
ai tự nguyện đảm nhận ơn gọi sống đời thánh hiến, họ được kêu gọi sống “sự hoàn
hảo của đức ái” bao hàm nghĩa vụ tuân giữ đức khiết tịnh trong sự độc thân vì
Nước Trời, đức khó nghèo và đức vâng phục. Tuyên giữ các lời khuyên này, trong
một bậc sống vững bền được Hội thánh công nhận, là đặc tính của “đời sống thánh
hiến” cho Thiên Chúa. Đời tu hay đời sống thánh hiến là một cách thế để sống
một cách “thân mật hơn” sự thánh hiến đã bắt nguồn từ bí tích Rửa tội và dâng
hiến trọn vẹn cho Thiên Chúa.[2] Người tu sĩ muốn mình bước theo Đức Kitô sát gần hơn, tự hiến cho Thiên
Chúa đáng mến trên hết mọi sự, và theo đuổi sự trọn hảo của đức mến để phục vụ
Nước Trời, bày tỏ và loan báo trong Hội thánh vinh quang của thế giới tương lai.[3]
– Đã có nhiều hình thức
sống đời thánh hiến khác nhau, đan tu hoặc cộng đoàn. Đời ẩn tu, để ngợi khen
Thiên Chúa và mưu cầu phần rỗi cho thế giới bằng việc sống cách biệt với thế
giới, trong thinh lặng đơn độc, chuyên cần cầu nguyện và sám hối. Đời tu dòng,
với lời tuyên khấn công khai và sống thành cộng đoàn huynh đệ, làm chứng tá cho
sự kết hợp giữa Đức Kitô và Hội thánh, và sự hiện diện rất cần thiết cho sự
khởi đầu của công cuộc truyền giáo. Các hội viên Tu hội đời sống giữa thế giới,
cố gắng vươn tới sự trọn hảo của đức mến và góp phần vào việc thánh hóa trần
gian cách đặc biệt từ bên trong, và sự hiện diện của họ tác động như men trong
bột.[4]
2. Thánh hiến và sứ vụ
– “Những ai tuyên giữ các
lời khuyên Phúc âm có sứ vụ đầu tiên là sống sự thánh hiến của mình. Vì họ ‘dấn
thân phục vụ Hội thánh do chính sự thánh hiến của mình, cho nên họ buộc phải
hoạt động cách đặc biệt cho công cuộc truyền giáo, theo thể thức riêng của hội
dòng’”.[5]
Như
Đức Thánh Cha Phanxicô nói “Hội
thánh gia tăng không bởi chiêu mộ nhưng bởi sự thu hút”.[6] Ở đâu có niềm vui thì
có sức thu hút. Nhiều người cảm thấy bị thu hút vì nhận ra những người Kitô hữu
thường sống vui và hạnh phúc, cách đặc biệt nơi những người sống đời thánh
hiến. Bởi vì người ta nhận ra họ “sống hiện tại cách say mê”, như là “những
chuyên viên hiệp thông”. Trong một xã hội xung đột, một xã hội khó chung sống
giữa các nền văn hóa với nhau, một xã hội chèn ép những kẻ cô thế, xã hội bất
bình đẳng, các môn đệ ấy của Đức Kitô được kêu gọi trở nên khuôn mẫu cụ thể của
cộng đoàn có khả năng sống tương quan huynh đệ, nhờ biết nhìn nhận phẩm giá của
mỗi người và chia sẻ các ân huệ mà mỗi người đã lãnh được. Kitô hữu sống đời
thánh hiến được mời gọi trở nên là những con người của sự hiệp thông, can đảm
hiện diện tại những nơi có đố kị và tranh chấp, trở nên dấu chỉ khả tín của sự
hiện diện của Thánh Thần, Đấng đổ tràn xuống các tâm hồn niềm say mê cho hết
mọi người được nên hiệp nhất (x. Ga 17,21),[7] nhưng tiên vàn sự hiệp thông cần được thực hành
ngay tại các cộng đoàn trong dòng: trong nhà của họ “không được phép cư ngụ
những lời chỉ trích, đàm tiếu, ghen tương, tị hiềm, đố kị”.[8]
– Trong cộng đoàn hội
thánh địa phương, cũng như giữa lòng trần thế, các tu sĩ như những lính canh
tỉnh thức (x. Is 21,11-12), tiếp tục bước đi với niềm tín thác vào Chúa và “làm
thức tỉnh thế giới”, bởi vì đặc tính của của đời sống thánh hiến là tính tiên
tri (prophetic). Biết Thiên Chúa và
biết con người đồng loại, vị tiên tri có khả năng phân định và tố giác tội ác
và những bất công, bởi vì họ là con người tự do, chỉ phải trả lẽ với Thiên Chúa
chứ không trả lời cho quyền bính thế gian nào hết; họ chỉ quan tâm đến lợi ích
của Thiên Chúa chứ không gì khác. Vị tiên tri thường đứng về phía người nghèo,
người cô thế cô thân, vì biết chính Thiên Chúa đứng về phía họ.
– Hơn ai hết, trước lời
cuối cùng của Chúa Giêsu ngỏ với các môn đệ xưa cũng như hôm nay “Hãy đi khắp
tứ phương thiên hạ”, những người sống đời thánh hiến được mời gọi đi ra khỏi
chính mình để đến những ‘vùng ngoại vi’ của cuộc đời. Cả một nhân loại đang chờ
đợi họ: những người đang tuyệt vọng, những gia đình đang gặp khó khăn, những
trẻ thơ bị bỏ rơi, các bạn trẻ gặp ngõ cụt trước đường đời tương lai, những người
già yếu bệnh tật bị loại trừ, những người giàu của cải nhưng trong lòng rỗng
không, những đang đi tìm ý nghĩa cuộc sống, khao khát sống đời tâm linh...
3. Giáo dân sống Năm đời sống
thánh hiến như thế nào?
– Các giáo dân trong họ
đạo và giáo phận được khuyến khích chia sẻ lý tưởng, linh đạo, sứ vụ với các tu
sĩ, những người sống đời thánh hiến. Chung quanh mỗi dòng tu, chung quanh các
Tu đoàn Tông đồ và những Tu hội đời, có một gia đình rộng lớn hơn, “gia đình
đặc sủng” bao gồm nhiều dòng, hay tu hội, hiệp hội, nhận biết nhau trong cùng
một đặc sủng, và đặc biệt là, các giáo dân cảm thấy mình được kêu gọi chia sẻ
đặc sủng ấy trong điều kiện sống giáo dân của mình.
– Đức Thánh Cha mời gọi
mọi cộng đồng Kitô hữu sống Năm đời sống thánh hiến, trước hết “để tạ ơn Thiên
Chúa và nhớ lại những hồng ân mà chúng ta đã và còn đang nhận lãnh nhờ sự thánh
thiện của những vị sáng lập và sự trung thành với đặc sủng của biết bao người
tận hiến. Tôi mời gọi hết mọi người hãy kề sát những người tận hiến, để chia
vui với họ, để san sẻ những khó khăn của họ, để hợp tác với họ, trong tầm mức
có thể được, trong việc thực thi tác vụ và công việc của họ mà cũng là của toàn
thể Hội thánh. Hãy giúp họ cảm nhận được lòng ưu ái và thiện cảm của toàn thể
dân Chúa”.[9]
Câu hỏi thảo luận
1. Trong giáo xứ của anh chị em, có những thành viên tu hội đời, hay cộng
đoàn đời thánh hiến nào? Đâu là đặc sủng, sứ vụ đặc thù của họ?
2. Cộng đoàn giáo xứ và các gia đình có chia sẻ gì về đặc sủng và về sứ
vụ với các dòng tu, tu hội này hay không?
3. Sống mầu nhiệm hiệp thông Hội thánh giữa các thành phần linh mục, tu sĩ, giáo dân ngày nay có gặp
những trở ngại nào cho công cuộc loan báo Tin mừng? Và đâu là những ích lợi?
––––––––––––––––––––––––––––––
[1] Lumen Gentium, 44.
[2] X. Perfectae Caritatis, 5.
[3] X. Bộ Giáo Luật, đ. 537.
[4] X. GLHTCG, 915-930.
[5] GLHTCG, 931. x. Bộ Giáo
Luật, đ. 783; x. Gioan Phaolô II, Redemptoris
Missio, 69.
[6] Evangelii Gaudium, 14.
[7] ĐGH Phanxicô, Tông thư gửi tất cả những người tận hiến
nhân dịp Năm đời sống thánh hiến, I. 2.
[8] Ibid., II.3.
[9] Ibid., III.2