Kính thưa toàn thể cộng đoàn,

Trong Thánh Lễ hôm nay, các ứng viên phó tế sẽ được thánh hiến để trở nên dấu chỉ và khí cụ của Chúa trong lòng Giáo Hội và giữa dòng đời. Tôi xin được chia sẻ vắn tắt 3 chiều kích căn bản diễn tả căn tính và sứ mệnh của phó tế. Ba chiều kích này đều bắt đầu bằng chữ C ‘3C’, đó là :Cầu nguyện với Chúa, Chia sẻ Lời Chúa, và Chứng tá đời sống.

1. Cầu nguyện với Chúa

Anh em sắp lãnh nhận thánh chức phó tế thân mến,

Tất cả anh em đều có kinh nghiệm về những khó khăn trong việc học các ngôn ngữ mới. Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng ngôn ngữ cầu nguyện luôn là ngôn ngữ khó khăn nhất đối với tất cả chúng ta. Ngôn ngữ cầu nguyện là ngôn ngữ của tâm hồn: Tâm hồn thinh lặng, tâm hồn lắng nghe, tâm hồn biết ơn, tâm hồn mở ra, tâm hồn thống hối, tâm hồn hoán cải. Cầu nguyện luôn là ngôn ngữ cũ, đồng thời, cũng luôn là ngôn ngữ mới. Đây là ngôn ngữ không ai có thể sở đắc đầy đủ trong một khoảng thời gian nào đó, mà cần phải học hoài, học mãi cho đến hơi thở cuối cùng. Hơn ai hết, thánh Phaolô cho chúng ta biết kinh nghiệm khó khăn cũng như tác nhân chính yếu của việc cầu nguyện khi nói rằng “có Thần Khí giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải; nhưng chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp chúng ta, bằng những tiếng rên siết khôn tả.” (Rm 8,26).

Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa, tuy nhiên, trong thân phận con người trên dương gian, Người đã trở nên mẫu gương cho tất cả chúng ta về đời sống cầu nguyện. Người cầu nguyện cách đặc biệt trước khi bắt đầu sứ mệnh rao giảng Tin Mừng, trước khi chọn Nhóm Mười Hai, hay trước khi bước vào cuộc khổ nạn. Trong mọi hoàn cảnh, Người luôn kết hợp mật thiết với Đức Chúa Cha và Chúa Thánh Thần.

Cầu nguyện cho phép chúng ta gặp gỡ Chúa, gặp gỡ chính mình, gặp gỡ anh chị em và gặp gỡ thế giới thụ tạo. Nhờ đó, chúng ta có thể lắng nghe tiếng Chúa, tiếng lòng mình, tiếng anh chị em và tiếng thế giới thụ tạo. Cầu nguyện giúp chúng ta nhận biết các tương quan trong đời sống mình cách đúng đắn hơn, ở đây, không phải là cái biết tri thức, cái biết khoa bảng, nhưng là cái biết kinh nghiệm, cái biết đồng hóa với chính đời sống mình. Nói cách khác, cầu nguyện thế nào thì đời sống như vậy.

Chân Phước Hồng Y John Henry Newman (1801–1890) nói rằng “sống là biến đổi, để được hoàn thiện cần biến đổi thường xuyên” (to live is to change, and to be perfect is to have changed often). Kinh nghiệm cho chúng ta biết rằng có hai hình thức biến đổi chính trong đời sống mỗi người, đó là, biến đổi theo chiều hướng tốt và biến đổi theo chiều hướng xấu. Cầu nguyện không chỉ giúp chúng ta biến đổi bản thân theo chiều hướng tốt, mà còn cho phép chúng ta điều chỉnh các tương quan khác trong đời sống mình cách tốt đẹp hơn.

2. Chia sẻ Lời Chúa

Tác giả thư gửi tín hữu Do Thái viết rằng “Lời Chúa là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tuỷ; lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người” (Dt 4,12). Trong các tác vụ của phó tế, chia sẻ Lời Chúa là tác vụ căn bản. Phó tế không chỉ chia sẻ Lời Chúa trong Thánh Lễ mà còn trong nhiều hoàn cảnh khác nữa, chẳng hạn, khi cử hành Bí Tích Rửa Tội, chủ sự Nghi Thức An Táng, Chứng Hôn, dạy dỗ các tầng lớp khác nhau trong giáo xứ, giáo họ, hay chia sẻ Lời Chúa cho những người chưa nhận biết Chúa.

Anh em được mời gọi để chia sẻ sức mạnh kỳ diệu của Lời Chúa cho mọi người. Mặc khải Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng Đức Giêsu Kitô là Lời Chúa. Theo thánh Gioan tông đồ, “lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại” (Ga 1, 1-4). Do đó, Lời Chúa, trước hết, không phải là những tư tưởng hay giáo thuyết được diễn tả nơi những con chữ bất động trên giấy, nhưng là một Ngôi Vị – Ngôi Hai Thiên Chúa, một con người – Đức Giêsu Kitô. Vì thế, chia sẻ Lời Chúa là chia sẻ về Đức Giêsu Kitô cũng như sứ mệnh và giáo huấn của Người. Khi chúng ta có thể nói với Đức Giêsu Kitô qua đời sống cầu nguyện, thì chắc chắn rằng chúng ta cũng có thể nói về Người cũng như sứ mệnh và giáo huấn của Người cho anh chị em chúng ta.

Chia sẻ Lời Chúa không chỉ giúp cho người khác hiểu về Chúa, mà còn giúp họ tìm được đường đi cho mình, đồng thời, nhận ra những định hướng và nền tảng cho đời sống đạo đức, luân lý. Vì thế, Lời Chúa phải được nhập thể vào trong chính đời sống của mỗi người, chứ không phải đóng khung trong nhà thờ, trong gia đình người tín hữu hay như đồ trang sức nhằm ‘làm tăng thêm vẻ diêm dúa cho bản thân’. Lời Chúa phải chuyển hóa và thẩm thấu vào trong cung cách hành xử và giao tiếp hằng ngày. Nói cách khác, Lời Chúa phải trở thành văn hóa sống của mỗi người.

Trong thế giới lắm bóng tối, anh em được mời gọi chia sẻ ánh sáng; trong thế giới lắm tin buồn, anh em được mời gọi chia sẻ tin vui; trong thế giới lắm sự dữ, anh em được mời gọi chia sẻ sự lành; trong thế giới lắm thất vọng, anh em được mời gọi chia sẻ hy vọng; trong thế giới lắm giả dối, anh em được mời gọi chia sẻ sự thật; trong thế giới lắm chết chóc, anh em được mời gọi chia sẻ sự sống, không chỉ sự sống thể l‎ý, sự sống sinh học, mà còn sự sống đạo đức, sự sống luân l‎ý, đặc biệt, sự sống vĩnh cửu. Nói cách khác, anh em được mời gọi chia sẻ Đức Giêsu Kitô, bởi Người là Ánh Sáng, là Tin Vui, là Sự Lành, là Hy Vọng, là Sự Thật, và là Sự Sống cho tất cả mọi người.

Trước khi bước vào cuộc khổ nạn, trả lời cho câu hỏi của thánh Tôma: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?”, Đức Giêsu Kitô nói rằng Người là Đường. Tuy nhiên, điều này thật khó hiểu đối với các môn đệ Đức Giêsu Kitô, vì họ nghĩ rằng theo Người là để được hưởng những lợi lộc vật chất trần gian. Cho đến khi Người chết trên thập giá với trái tim bị đâm thủng, máu cùng nước chảy ra, các môn đệ mới nhận ra rằng đường Đức Giêsu Kitô nói đến là đường Đường Trái Tim: Trái Tim yêu thương, Trái Tim tha thứ, Trái Tim bị đâm thủng, Trái Tim mở ra với tất cả mọi người trong gia đình nhân loại, đặc biệt, những người tội lỗi hay nạn nhân của các hình thức áp bức, bóc lột trong xã hội.

Đức Giêsu Kitô đã đến với nhân loại bằng Đường Trái Tim. Là môn đệ và tông đồ của Người, anh em hãy đi trên Đường Trái Tim. Đồng thời, anh em được mời gọi chia sẻ với tất cả mọi người về Đường Trái Tim này, chứ không phải bất cứ đường nào khác. Anh em biết rằng, vị tử đạo đầu tiên của Kitô giáo (khoảng năm 34 A.D.) là một phó tế, thánh Stêphanô, đã đi trên Đường Trái Tim đến hơi thở cuối cùng.

3. Chứng tá đời sống

Phó tế không phải là người làm chức vụ phó dưới quyền ai đó. ‘Phó tế’ xuất xứ từ tiếng Hi Lạp διάκονος (diakonos), có nghĩa là người giúp đỡ, người giúp việc, người phục vụ. Lịch sử Giáo Hội cho chúng ta biết rằng phó tế không chỉ giới hạn công việc mình trong phạm vi phụng vụ của Giáo Hội, chẳng hạn, giúp đỡ Giám mục hay linh mục trong khi cử hành Thánh Lễ hoặc rao giảng Lời Chúa, mà còn thi hành nhiều tác vụ khác nữa, nhất là chứng tá đời sống mình qua việc bác ái và phục vụ anh chị em.

Sách Công Vụ Tông Đồ cho chúng ta biết rằng, trong Giáo Hội sơ khai, tác vụ chính yếu của phó tế là làm việc bác ái, chẳng hạn, chia sẻ các nhu cầu thiết yếu cho những người góa bụa, trẻ mồ côi hay người nghèo túng trong cộng đoàn. Dần dần, khi Kitô giáo lan rộng, phó tế được mời gọi tham dự tác vụ điều hành cộng đoàn nữa.

Trong buổi nói chuyện với các thành viên thuộc Hội Đồng Giáo Hoàng về Giáo Dân’ (Consilium de Laicis, vào ngày 2 tháng 10 năm 1974), Đức Giáo Hoàng Phaolô VI nhấn mạnh rằng “con người thời nay muốn lắng nghe những chứng nhân hơn là những thầy dạy, và nếu họ lắng nghe những thầy dạy, thì cũng vì những thầy dạy là những chứng nhân.” Khi con người muốn lắng nghe chứng nhân hơn là thầy dạy, muốn lắng nghe kinh nghiệm hơn là tư tưởng, muốn lắng nghe đời sống hơn là lý thuyết, thì người chia sẻ về Đức Giêsu Kitô cũng như sứ mệnh và giáo huấn của Người, thiết nghĩ, cần phải liên kết mật thiết với Người và sống tốt những giáo huấn của Người, rồi mới truyền thụ cho người khác.

Nếu dùng hình ảnh để diễn tả tương quan giữa phó tế và Giáo Hội, chúng ta có thể nói rằng phó tế là y tá trong bệnh viện Giáo Hội, chứ không phải là lực sĩ trong đấu trường thể thao. Với nghi thức trao Sách Phúc Âm sẽ diễn ra sắp tới, anh em được nghe rằng “con hãy nhận lấy Phúc Âm Đức Kitô mà con đã trở thành người rao giảng, và con hãy biết là phải tin điều con đọc, dạy điều con tin và thi hành điều con dạy.” Như vậy, đọc-tin-dạy-thi hành luôn đi cùng nhau. Nghĩa là những điều mình đọc, những điều mình tin, những điều mình dạy được diễn tả qua những hành động cụ thể.

Chủ đề quán xuyến của 3 bài đọc trong Thánh Lễ hôm nay (Ds 3,5-10a; 1Tm 3,8-13; Mt 20,25-28) là phục vụ, phục vụ Thiên Chúa trong việc thờ phượng và phục vụ anh chị em mình trong đời sống hằng ngày. Đức Giêsu Kitô đã trở nên mẫu gương phục vụ cho tất cả mọi người trong gia đình nhân loại. Phó tế được mời gọi trở thành môn đệ thực thụ của Đức Giêsu Kitô, Đấng không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ tất cả mọi người (Mc 10,45).

Hôm nay, Giáo Hội cử hành Lễ Đức Maria thăm viếng bà Ê-li-sa-bét. Chúng ta biết rằng, hơn ai hết, Đức Maria đã sống trọn vẹn ba chiều kích mà chúng ta cùng nhau chia sẻ ở trên, đó là: cầu nguyện với chúa, chia sẻ lời Chúa, và chứng tá đời sống. Cụ thể là: Trước biến cố Truyền Tin, Đức Maria đã sống đời cầu nguyện. Sau biến cố Truyền Tin, Đức Maria đã đến thăm và chia sẻ Lời Chúa là Đức Giêsu Kitô, mà mình đang mang trong lòng với những người trong gia đình bà Ê-li-sa-bét. Đức Maria đã chứng tá đời sống mình bằng việc phục vụ bà Ê-li-sa-bét và sau khi bà sinh thánh Gioan Tẩy Giả, Đức Maria mới trở về nhà.

Kính thưa toàn thể cộng đoàn,

Cầu nguyện với Chúa, chia sẻ Lời Chúa và chứng tá đời sống là ba chiều kích làm nên căn tính và sứ mệnh của phó tế. Chúng ta nhận thức rằng không chỉ phó tế mà thôi, tất cả Kitô hữu được mời gọi luôn trung tín với ba chiều kích này trong hành trình trần thế của mình.

Cùng nhau, chúng ta cầu xin Chúa Thánh Thần luôn đồng hành, hướng dẫn và nâng đỡ tất cả chúng ta, đặc biệt, những người sắp lãnh nhận thánh chức phó tế trong Thánh Lễ này.

Xin cảm ơn toàn thể cộng đoàn đã chú ý lắng nghe! 

Nhà Thờ Chính Tòa Xã Đoài, 31-5-2018

GM. Phêrô Nguyễn Văn Viên

Nguồn: Giáo phận Vinh